C ÁC
T ÁC
PH ẨM C ỦA GI ÁO S Ư TR ẦN CHUNG NG ỌC
T ài li ệu s ưu t ập c ủa http:// tranhuunghiafamer.blogspot.com/
___________________
Đôi hàng về tác giả
Sinh
năm 1931 tại Hà-Nội.
1952:
Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy.
1956:
Xin giải ngũ.
1965: Được giải ngũ
1965-1967: Giảng Nghiệm Viên, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon.
1967: Được học bổng đi Mỹ học về ngành Vật Lý ở Đại Học Wisconsin - Madison.
1972: Tốt nghiệp Ph.D., Vật Lý, Đại Học Wisconsin - Madison.
1972-1975: Giảng sư, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon. Giáo sư thỉnh giàng: Đại Học Vạn Hạnh, Trường Kỷ Thuật Thủ Đức (1), Trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Đồng thời, cùng với các Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Ích (M.I.T), Vũ Thượng Quát (Cal.Tech), Huỳnh Văn Quảng (S.I.U), được tuyển làm ChuyênViên Đại Học, trực thuộc Thứ Trưởng Giáo Dục, trước là Đỗ Bá Khê, sau là Bùi Xuân Bào, đặc trách xét văn bằng ngoại quốc tương đương với các văn bằng Việt Nam, cùng nghiên cứu cải tổ chương trình giáo dục đại học.
1975-1977: Post Doctorate Fellow, Physics Department, University of Wisconsin- Madison.
1977-1996: Manager, Surface Analysis Laboratory, Materials Center, University of Wisconsin – Madison. Direct and conduct research in the field of Surface Analysis using new techniques such as AES (Auger Electron Spectroscopy); ESCA (Electron Spectroscopy for Chemical Analysis); SEM (Scanning Electron Microscopy); SIMS (Secondary Ion MassSpectroscopy) etc…
1989: Tháng 11: Được mời sang Singapore làm Cố Vấn Kỹ Thuật ở SISIR (Singapore Institute of Standards and Industrial Research)
1996 - To date: Về hưu. Nghiên cứu Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Lịch sử v..v..
(1) niên khóa 1973-1974, chỉ có vài giờ ở đây, không nhớ chính xác tên trường là Kiểu Mẫu Thủ Đức hay Đại Học Kỷ Thuật Thủ Đức.
Tác phẩm đã xuất bản:
Tác Phẩm Viết Chung Với Một Hay Nhiều Tác Giả Khác:
- Bản Chất Các Phản Ứng Về Bài Giảng Của HT Nhất Hạnh (2001)
- Dialogue With Pope John Paul II (1997)
- Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (1995; Tái bản lần 3: 2000)
- Ki Tô Giáo Và Kế Hoạch Cải Đạo Á Châu (2005)
- LM Trần Lục, Thực Chất Con Người Và Sự Nghiệp (1999)
- Nguyễn Trường Tộ, Thực Chất Con Người Và Di Thảo (1998)
- Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước ?? (2002)
- Người Việt Nam & Đạo Giêsu (2007)
- Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới; Tuyển Tập I (1996)
- Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới; Tuyển Tập II (1997)
- Phê Bình Những Bài Phê Bình Cuốn Đối Thoại…[Tập 1, Phê Bình Ông Dương Ngọc Dũng; Tập 2, Phê Bình Ông Đỗ Mạnh Tri] (1997)
- Tôn Giáo Và Tổ Quốc (2003)
- Tuyển Tập: 1963-2003: Bốn Mươi Năm Nhìn Lại (2003)
- Vạch Trần Âm Mưu Phá Ngầm Phật Giáo (2000)
- Vatican: Thú Tội Và Xin Lỗi (2000)
- Võ Văn Ái: Con Nội Trùng Của Phật Giáo Việt Nam (2005)
Các Bài Viết:
- Hơn 100 bài viết về tôn giáo, lịch sử, khoa học, thời sự v..v.. đăng trên các báo Nguồn Sống [Tu viện Kim Sơn], Phật Giáo Hải Ngoại [Phật Học Viện Quốc Tế], Sen Trắng [Chùa Giác Lâm], Giao Điểm, và trên các trang nhà Giao Điểm, Sách Hiếm v..v..
Các bài đã đăng xếp theo mẫu tự:
Đối thoại:
"Sản Phẩm Trí Tuệ" của Nguyễn Anh Tuấn (Trần Chung Ngọc)
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ (Trần Chung Ngọc)
Chu Tất Tiến: Here We Go Again (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - "Cha Chung" là ai? (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận (Trần Chung Ngọc)
Chuyện "Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? (Trần Chung Ngọc)
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope (Trần Chung Ngọc)
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! (Trần Chung Ngọc)
Giáo Dân Nguyễn Phúc Liên đả đảo Vatican!(Phúc Lâm)
Khổ Thân Củ Khoai Tôi (Trần Chung Ngọc)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập (Trần Chung Ngọc)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn (1)
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn (2)
Lại Chuyện Ruồi Bu của Trần Trung Đạo (Trần Chung Ngọc)
Một Trí Thức Không Biết Ngượng (1) - Trần Chung Ngọc
Một Trí Thức Không Biết Ngượng (2)- Trần Chung Ngọc
Nhân Đọc Bài "Nhà Chúa hay Nhà Chùa" của LM Thiện Cẩm (Trần Chung Ngọc)
Nhân Đọc Bài "Niềm Tin ..." Của Trần Thị Hồng Sương - 2 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Đọc Bài "Niềm Tin ..." Của Trần Thị Hồng Sương -1 (Trần Chung Ngọc)
Phải Chăng GS Quang Quá Lo Xa ? (Trần Chung Ngọc)
Thiền Sư Nhất Hạnh
Thư Gửi Bạn: Những Người Tin Có Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Thầy Nhất Hạnh
Thử Phân Tích Một Đoạn Văn của André Masson (Trần Chung Ngọc)
Trả Lời Ông Lưu Á Ni (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc BS Ngyễn Thị Thanh Trả Lời Câu Hỏi Don Lê... (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc Bài "Nhận Thức..." của ông Nguyễn Văn Thắng (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc: “Từ Dieu et César đến Thập Giá và Lưỡi gươm” Của Nguyễn Văn Lục: (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Không Thể Lương Thiện Đi Một Chút ! (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về "Thói Đời Đối Kháng"(Trần Chung Ngọc)
Viết Mà Chơi Về Đối Thoại (Trần Chung Ngọc)
Vài Nhận Xét về bài...của Nguyễn Tường Tâm (Trần Chung Ngọc)
Vài Ý Kiến Về Bài "Giáo Hội Công Giáo Roma" của ông Nguyễn Học Tập (Trần Chung Ngọc)
Về Bức Thư Ngỏ của ông Chu Tất Tiến (Trần Chung Ngọc)
Về một bài báo...
Vụ Án Nguyễn Văn Lý
Đáp Thư của Bác Gửi Cháu TTVN (Trần Chung Ngọc)
Đọc bài ... của Nguyễn Văn Trung
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về "Giáo Hội Tiên Khởi..." (Trần Chung Ngọc)
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ (Trần Chung Ngọc)
Khoa học:
Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Con Người và Vũ Trụ - Dẫn Nhập
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 1)
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 2)
Con Người và Vũ Trụ - Phần I (Mục 3)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (kết)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 1)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 2)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 3)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 4)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 5)
Con Người và Vũ Trụ - Phần II (Mục 6)
Nguồn Gốc Con Người - Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Nguồn Gốc Vũ Trụ - Thuyết Big Bang (Trần Chung Ngọc)
Thiết Kế Thông Minh hay Ngu Đần (Trần Chung Ngọc)
VietCatholic & Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Vấn Đề Đạo Đức Trong Khoa Học (Trần Chung Ngọc)
Lịch sử:
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? (Trần Chung Ngọc sưu tầm)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Thư mục để tham khảo (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Diệm (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -1 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 (Trần Chung Ngọc)
Xét Lại Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ - Nhân Đọc... (Trần Chung Ngọc)
ĐIỆN BIÊN PHỦ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang (Trần Chung Ngọc)
Tôn giáo:
"Ngày Tận Thế" của Ki Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! - Dẫn nhập (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! Các cơ sở "bác ái" của Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
AMEN ! Nội dung và phản ứng của Giáo hội CG (Trần Chung Ngọc)
Amen! (Là Như Thế Đó!) (Trần Chung Ngọc)
Anh ngữ: What is Buddhism? (Trần Chung Ngọc)
Bộ Mặt Thật Của Benedict XVI (Trần Chung Ngọc)
Chương Trình "Cứu Rỗi" của Chúa Giêsu (Trần Chung Ngọc)
Con Đường Chuyển Hóa (Trần Chung Ngọc)
Cuộc Đối Thoại giữa Phật và Chúa (Trần Chung Ngọc)
Các danh nhân Âu Mỹ nghĩ gì về GOD (Trần Chung Ngọc)
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Có “Christian God” Hay Không? (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo & Tin Lành (2)- Đức tin và quyền lực
Công Giáo & Tin Lành (3) - Sự suy thoái
Công Giáo & Tin Lành -Sự khác biệt (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - 5 núi tội ác (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Abraham tổ phụ các đạo Chúa(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Dẫn Nhập (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Học Thuật Gia Tô (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Nhận Định Tổng Quát(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Sách Lược Bành Trướng (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Thay Lời Kết(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Thánh Kinh (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Tài Liệu Tham Khảo(Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Vào Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Chính Sử - Maria (Trần Chung Ngọc)
Công Giáo Hắc Sử - Dẫn Nhập
Darwin Hay Thượng Đế? Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? (Trần Chung Ngọc)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
GH BENEDICT XVI nói "cực kỳ xấu hổ"
Giáo Hoàng CG và Giáo Chủ HG (Trần Chung Ngọc)
Giê Su Là Ai ? - Chương 2
Giê Su Là Ai ? - Giêsu và quốc gia
Giê Su Là Ai ? - kết chương 1
Giê Su Là Ai ? - lời nói đầu (Trần Chung Ngọc)
Giê Su Là Ai ? - tiếp chương 2
Giê Su Là Ai ? - Vài Lời "Giảng Dạy"
Giê Su Là Ai ? -Bài Giảng Trên Núi
Giê Su Là Ai ?- Ba bằng chứng ngụy tạo
Giê Su Là Ai ?- Chương 1
Giê Su Là Ai ?- dẫn nhập
Giê Su Là Ai ?- kết luận
Giê Su Là Ai ?- Phụ lục
Hiểm họa Ki-tô là có thực (Trần Chung Ngọc)
HIỆN TƯỢNG H.Y. PHẠM MINH MẪN (Trần Chung Ngọc)
Huyền Thoại Cứu Rỗi (Trần Chung Ngọc dịch)
Huyền Thoại Lộ Đức (Trần Chung Ngọc)
Hãy Tạ Ơn Chúa ! (Trần Chung Ngọc)
Linh mục là ai (2)
Linh mục là ai (Trần Chung Ngọc)
Lịch Sử các Giáo Hoàng (Trần Chung Ngọc)
Lời Truyền Phép Thánh Thể (Trần Chung Ngọc)
Mười Điều Chính Để Nhận Biết Ai .. (Trần Chung Ngọc)
Một Bản Án Chống Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
Một Hình Ảnh Cần Dẹp Bỏ (Trần Chung Ngọc dịch)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Giê-su Sinh Ra Đời Để Làm Gì? (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Lời Kết (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Lời Tòa Soạn (TCN & NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Người Việt Nam theo Đạo Giêsu Là Vì Cái Gì? (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Nhiệm Vụ Truyền Giáo Của Đạo Giê-su Trên Thế giới (TCN&NMQ)
Người Việt Nam & Đạo Giêsu: Thánh Kinh Ki Tô Giáo Viết Những Gì? (TCN&NMQ)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 (Trần Chung Ngọc)
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 (Trần Chung Ngọc)
Nhân đọc bức thư của GH .. (Trần Chung Ngọc)
Nhìn Lại Ca-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Nhìn lại cuộc tranh đấu Phật Giáo (Trần Chung Ngọc)
Những Sự Thật Xung Quanh Vụ Đức Mẹ Hiện Ra ở Fatima (Trần Chung Ngọc)
Phản Ứng của Phật Giáo ... (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo Thiền Chứ Không Ngủ (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo Việt Nam trong thời đại mới (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo VN trong thế giới đa văn hóa (1)
Phật Giáo VN trong thế giới đa văn hóa (2)
Quanh Chuyện Chúa Chết (Trần Chung Ngọc)
Quanh vấn đề JOSEPH RATZINGER được bầu làm GH (Trần Chung Ngọc)
SÁCH: "LỘT MẶT NẠ CA-TÔ GIÁO" (dịch phẩm)
Sự Suy Thoái Của Ki-tô Giáo
Thiên Chúa của những khoảng trống (Trần Chung Ngọc)
Thư Ngỏ gửi Cám Ơn TGM (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 1. Về Ca-tô giáo (Trần Chung Ngọc)
Tin Tức Hình Ảnh Đại Lễ VESAK Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Trai đàn chẩn tế (Trần Chung Ngọc)
Tôi đọc Đường Xưa Mây Trắng
Tương Lai Giáo Hội Ca-Tô Rô Ma ở VIỆT NAM (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Tín Đồ Ki Tô Giáo Âu Châu Mở Chiến Dịch “Sửa Bỏ Rửa Tội”? (Trần Chung Ngọc)
Tản mạn về "NGÀY LỄ TẠ ƠN" (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về Mùa Giáng Sinh (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Về Ngày "Giêsu Sinh Ra Đời" (Trần Chung Ngọc)
Tổng Giám mục Stanislaw
Việt Nam, Vesak Liên Hiệp Quốc 2008 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Phật Giáo và Khoa Học (Trần Chung Ngọc)
Vô Thần - Hữu Thần (Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -1 (Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -2(Trần Chung Ngọc)
Về Cuốn "Sống Theo Mục Đích" của Mục Sư RICK WARREN -3(Trần Chung Ngọc)
Về Một Cuốn Sách ()Trần Chung Ngọc
Xmas (Trần Chung Ngọc)
Ông Già Noel Dưới Mắt Kỷ Sư (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực! (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? - Những "Danh Ca" của Công Giáo (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? - Thánh Mẹ Teresa (Trần Chung Ngọc)
Đâu Là Sự Thực? -"Khuôn Mặt Siêu Việt" của GH John Paul II ra sao? (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Cha - Nhập Đề (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Cha Của Những Người Theo Đạo Thiên Chúa! (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Con Giêsu Của Những Người Theo Đạo Giêsu! (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Lời Kết (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Mục Đích Giáng Trần (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Trí Tuệ (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Vào Đề (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Giêsu - Vấn Đề Đạo Đức (Trần Chung Ngọc)
Đây, Chúa Ma - Ngôi Ba Trong "Bộ Ba Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thiên Chúa - Đặc Tính Chúa Cha (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Ngôi Ba Thiên Chúa (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Ngôi Ba Trong “Bộ Ba Thiên Chúa” (Trần Chung Ngọc)
Đây, Thánh Ma - Thủ tục và ý nghĩa của lễ rửa tội (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Lời Nói Đầu (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Phần I (Trần Chung Ngọc)
Đối Chiếu Phật Giáo & Kitô Giáo - Phần II (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo- Bí Tích (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Chú Thích, Tài Liệu (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Dẫn Nhập (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Kết (Trần Chung Ngọc)
Đức Tin Công Giáo-Nguồn Gốc Ki-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)
Thời sự:
30 tháng 4: Nhìn Lại Cuộc Chiến Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Chống Cộng Theo Gương David (Trần Chung Ngọc)
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng (Trần Chung Ngọc)
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
Dư Luận Quần Chúng
Linh tinh Thời sự, Viết mà chơi
Ma Quân Quấy Nhiễu Sư Tăng - Nhưng Thất Bại (Trần Chung Ngọc)
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 2
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 3
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM -1
Một trong ba thứ (Trần Chung Ngọc)
NED và Lê Quốc Quân
Nguyễn Cao Kỳ và Việt Weekly
NGÀY 30/4/1975 (Trần Chung Ngọc)
Nhân chuyện ông Triết đi Mỹ
Nhân Quyền của Mỹ & Dự Luật H.R. 3096 (Trần Chung Ngọc)
Những Người Máy Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Noam Chomsky & Robert McNamara (Trần Chung Ngọc)
Phiếm Luận Về "Cộng Sản" Hải Ngoại (Trần Chung Ngọc)
Phải Chăng Chiếc Khăn Quàng Là Giải Pháp Cho Tòa Khâm Sứ? (Trần Chung Ngọc)
Phật Giáo Việt Nam Giữa Hai Ý Hệ Công và Cộng (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Chiến Tranh Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Lá Cờ Vàng (Trần Chung Ngọc)
Thử Phân Tích Vài Đoạn Trong Bài Diễn Văn Nhậm Chức (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn về Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Xung Quanh Cuộc Chiến Ở Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
VAALA - Nghệ Thuật Lên Tiếng [Nhưng Bị Bóp Nghẹt] (Trần Chung Ngọc)
Vài Nhận Định Khi Đọc Lời Phát Biểu Của Ông Ngô Quang Kiệt (Trần Chung Ngọc)
Vài Ý Kiến Về Vấn Đề Bang Giao Với Vatican (Trần Chung Ngọc)
ĐÒI ĐẤT ! ĐẤT NÀO ? ĐẤT CỦA AI ? (Trần Chung Ngọc)
Đôi Hàng Về Chuyện Cờ Vàng Cờ Đỏ (Trần Chung Ngọc)
Đôi Điều Chung Quanh Cuốn Le Livre Noir (Trần Chung Ngọc)
ĐĐ Thích Nhật Từ và Xóm Đạo (Trần Chung Ngọc)
“Religulous” Điểm Phim Cuối Tuần (Trần Chung Ngọc)
“Sư Chính Trị” của MARK MOYAR
CÔNG GIÁO VÀ CHÍNH SỬ______________________________Trần
Chung Ngọc
CHƯƠNG DẪN NHẬP
Cuốn
sách này là kết quả sưu khảo về thực chất đạo Ca Tô Rô Ma, phiên âm từ Roman
Catholic, mà gần đây người Việt thường biết dưới cưỡng từ Công giáo, và tác
dụng của đạo này trên thế giới trong gần 2000 năm, và đặc biệt trên dân tộc
Việt Nam trong mấy thế kỷ vừa qua.
Cuốn
sách này thành hình sau một thời gian dài suy nghĩ, đắn đo. Đắn đo suy nghĩ vì
hai lý do. Thứ nhất, viết về những sự thực của một tôn giáo đầy quyền lực thế
tục và giàu có về tiền bạc, của cải vật chất, như đạo Ca Tô Rô Ma, những sự
thực mà giáo hội không bao giờ muốn cho các tín đồ biết tới, quả thật không dễ.
Với kinh nghiệm của gần 2000 năm, Giáo hội Ca Tô Rô Ma, qua bộ máy tuyên truyền
tinh vi với đầy đủ phương tiện truyền thông và qua những cán bộ truyền giáo
(linh mục, giám mục, tổng giám mục v..v..), một hình ảnh khác hẳn thực chất của
đạo Ca Tô Rô Ma đã được truyền bá trên toàn thế giới, đặc biệt là trong đám tín
đồ kém hiểu biết, ít học, hay vô học. Do đó, khi đưa ra một hình ảnh không hợp
với những điều "Giáo hội dạy rằng", người viết khó tránh được phản
ứng của những tín đồ vẫn còn đức tin của thời Trung Cổ, còn sót lại trong một
số địa phương, phần lớn ở trong những quốc gia nghèo khổ nhất trên thế giới.
Những lời xuyên tạc vu khống như: kẻ thù của giáo hội, chống phá tôn giáo, gây
chia rẽ giữa các tôn giáo, bôi nhọ tôn giáo v...v..., luôn luôn sẵn sàng để
chụp lên đầu những ai viết ra những sự thực trái ngược với những hình ảnh mà
Giáo hội đã cấy vào trong đầu óc của số tín đồ này. Thứ nhì, viết về những sự
thực của Ca Tô La Mã Giáo thì có lợi ích gì? có thay đổi được gì? có tạo được
sự hòa hợp tôn giáo trong đại khối dân tộc như lòng mong ước, hay lại gây thêm
chia rẽ?
Nhưng
trước những sự xuyên tạc lịch sử của một số tín đồ Ca Tô Việt Nam, nào là
"công ơn" của Alexandre de Rhodes, nào là những sự đóng góp cho quốc
gia của Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ v...v...; trước mưu đồ gây chia rẽ trong
đại khối dân tộc Việt Nam qua vụ phong 117 Thánh trong đó có một số có tội với
dân tộc Việt Nam; trước những bài viết có tính cách mạ lỵ những anh hùng dân
tộc như Vua Quang Trung, lãnh tụ Văn Thân Phan Đình Phùng v...v...; trước những
cuốn sách phóng đại sự việc, đổ lên đầu các vua triều Nguyễn trách nhiệm cấm
đạo và tàn sát giáo dân; trước những lời kinh nhật tụng có tính cách xúc phạm
đến ông bà, tổ tiên và mọi tôn giáo khác ở Việt Nam v...v..., tôi nghĩ không có
gì phải đắn đo suy nghĩ nữa, đã đến lúc phải đi đến quyết định đưa ra ánh sáng
thực chất của Ca Tô Giáo Rô Ma: thứ nhất, để đánh đổ những mưu toan xuyên tạc
lịch sử, lấy lại công bằng lịch sử, và thứ nhì, với hi vọng những sự thật này
sẽ giải phóng một số người có đầu óc tiến bộ, cởi mở, và tôn trọng sự thật.
Nhưng làm sao có thể nói hết được sự thật trong phạm vi một cuốn sách nhỏ? Cho
nên, tôi chỉ có thể nói lên một phần nhỏ những điều tôi biết và hi vọng các bậc
học giả chuyên ngành sẽ bổ túc thêm những thiếu sót không thể tránh được.
Cuốn
sách này cũng còn có một mục đích rõ rệt: giúp cho những tín đồ Ca Tô Việt Nam
hiểu rõ tại sao Giáo Hoàng John Paul II lại răn dạy các tín đồ Ca Tô phải ăn
năn thống hối, xưng tội với lịch sử và dân tộc, trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, dù
những lời dạy này thực chất chỉ là những lời nói đãi bôi, đầu môi chót lưỡi, vì
trái ngược với những hành động của giáo hoàng và tòa thánh Vatican, và nhất là
vì Giáo hội Ca Tô không đưa ra một sự đền bù nào cho những tác hại mà Giáo hội
đã gây ra cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hi vọng những
tài liệu lịch sử trong cuốn sách này sẽ giúp họ nhận rõ thực chất của Ca Tô
Giáo Rô Ma.
Có
một số người cho rằng: "Chúng ta không bao giờ nên phê phán, chỉ trích tôn
giáo của người khác," dù nhiều khi những cái gọi là "phê phán"
hay "chỉ trích" chỉ là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ
nhận. Tôi tôn trọng quan niệm "không nên dính vào chuyện của người
ta" của họ. Nhưng sống trong một xã hội mà mọi sự đều liên hệ tới nhau, và
tôn giáo thường có ảnh hưởng tới mọi vấn đề xã hội, thái độ này có hại nhiều
hơn là có lợi. Thật vậy, trong cuốn Nền Tự Do của Mỹ và Quyền Lực Ca Tô, trg. 4
(American Freedom and Catholic Power), Paul Blanshard viết như sau:
"Anh không
bao giờ nên chỉ trích tôn giáo của người khác," cái giáo lý nghe có vẻ vô
hại đó, phát xuất từ những tình cảm cao quý, nhưng thật là nguy hại cho lối
sống dân chủ. Nó không biết đến bổn phận phải bênh vực sự thực trong mọi ngành
tư duy của mọi công dân tốt. Nó không xét đến sự kiện là phần lớn cái mà con
người gọi là tôn giáo cũng là chính trị, lành mạnh xã hội và kinh tế. Giữ yên
lặng về "tôn giáo của người khác" có thể đưa đến nền y tế hạng hai,
nền giáo dục thấp kém, và chính quyền phản dân chủ.
Tôi tin rằng
mọi công dân Mỹ - CaTô và phi-CaTô - đều có bổn phận phải nói lên vấn nạn Ca
Tô, vì những vấn đề liên hệ tới CaTô đi vào trọng tâm của nền văn hóa và quốc
tịch của chúng ta. Nói thẳng về vấn nạn này có thể bị nhiều nguy hiểm cay đắng,
hiểu lầm và ngay cả sự cuồng tín, nhưng những nguy hiểm của sự yên lặng lại còn
lớn hơn. Bất cứ người nào phê phán về những chính sách của hệ thống quyền lực
CaTô đều phải gồng mình lên đội cái mũ "chống CaTô", vì đó là một
phần trong sách lược chống đỡ của hệ thống CaTô: chụp cái nhãn hiệu này lên
những người đối lập; và họ cũng phải cam chịu mang danh hiệu là kẻ thù của dân
CaTô, vì hệ thống CaTô luôn luôn đồng hóa những tham vọng của giới giáo sĩ với những
cái mà họ cho là ước muốn của tín đồ."
(You
should never criticize another man's religion", that innocent-sounding
doctrine, born of the noblest sentiments, is full of danger t o the democratic
way of life. It ignores the duty of every good citizen to stand for the truth
in every field of thought. It fails to take account of the fact that a large
part of what men call religion is also politics, social hygiene and economics.
Silence about "another man's religion" may mean acquiescence in second-rate
medicine, inferior education and anti democratic government.
I
believe that every American - Catholic and non-Catholic - has a duty to speak
on the Catholic question, because the issues involved go to the heart of our
culture and our citizenship. Plain speaking on this question involves many
risks of bitterness, misunderstanding and even fanaticism, but the risks of
silence are even greater. Any critic of the policies of the Catholic hierarchy
must steel himself to be called "anti-Catholic," because it is part
of the hierarchy's strategy of defense to place that brand upon all its
opponents; and any critic must also reconcile himself to being called an enemy
of the Catholic people, because the hierarchy constantly identifies its
clerical ambitions with the supposed wishes of its people.)
Ý
thức được những điều trên và chấp nhận những nhãn hiệu có thể chụp lên đầu và
cả những lời trách cứ của những người không muốn dính vào "tôn giáo của
người khác", sau đây tôi sẽ cố gắng đưa ra một số sự thực về đạo Ca Tô Rô
Ma, dựa theo những tài liệu khả tín hiện hữu. Làm công việc bạc bẽo này với mục
đích gì? Chẳng qua chỉ theo lời dạy của Đức Khổng Tử: "Thay vì ngồi nguyền
rủa bóng tối, tốt hơn là thắp lên một ngọn đèn nhỏ". Sự thắp lên một ngọn
đèn nhỏ này tuyệt đối không có mục đích truy cầu bất cứ cái gì cho bản thân,
cũng như tuyệt đối không bắt nguồn từ quan niệm cách biệt tôn giáo, mà phát
xuất từ lòng mong muốn khai sáng một vấn đề quan trọng của lịch sử, ngõ hầu đưa
tới một sự hiểu biết đúng đắn về vấn đề tôn giáo và do đó hi vọng có thể tránh
được sự vấp lại những sai lầm lịch sử mà hậu quả là sự chia rẽ trong đại khối
dân tộc.
Tôi
quan niệm rằng, nếu những tài liệu mà tôi dẫn chứng trong cuốn sách này hiện có
đầy trong các thư viện của các trường đại học, trong các thư viện công cộng,
trong các tiệm sách, trong Internet v...v.. mà không tạo thành "vấn
đề" ở Âu Mỹ, ở trong những quốc gia mà đa số theo KiTô Giáo, thì không có
lý do gì chúng lại trở thành "vấn đề" đối với người dân Việt Nam
trong đó chỉ có khoảng 6-7 % theo CaTô Giáo RôMa. Do đó, mọi mưu toan chối bỏ
hoặc xuyên tạc các tài liệu trên là chống Ca Tô, gây bất hòa giữa các tôn giáo,
chia rẽ tôn giáo v..v.., hay những mưu toan ngăn chặn phổ biến các tài liệu này
là những hành động lạc hậu, phản trí thức của thời Trung Cổ ở Âu Châu, đi ngược
lại trào lưu mở mang dân trí của người dân, giữ dân tộc Việt Nam trong vòng ngu
muội, đặt quyền lợi tôn giáo, phe phái lên trên quyền lợi của dân tộc. Người
Việt Nam, cũng như người dân trong mọi quốc gia tân tiến khác, có quyền biết về
những sự thực lịch sử, dù những sự thực lịch sử này liên hệ đến vấn đề tế nhị
tôn giáo và tín ngưỡng, vì tôn giáo không thể đứng ngoài dân tộc. Chỉ có như
vậy, dân trí mới mở mang, không vấp lại những sai lầm hại dân hại nước, và sự
hòa đồng dân tộc mới có hi vọng thực hiện, sự hòa đồng mà chúng ta đã thấy
trong các nước văn minh tiến bộ nhất.
Lẽ
dĩ nhiên, trong cái việc làm tế nhị, dễ bị đụng chạm và dễ bị xuyên tạc này,
những trở ngại như đã nêu ở trên là điều không thể tránh. Nhưng nếu chỉ vì
những trở ngại ngoài mặt này mà chúng ta, những con người trí thức, cứ tiếp tục
bịt mắt bịt tai người dân, thì chúng ta quả là mang tội với dân tộc vì như vậy
là chúng ta đã chặn bước tiến của dân tộc. Các nước tân tiến trên thế giới sở
dĩ văn minh tiến bộ là vì nơi đây các chính phủ đều tôn trọng quyền tự do trình
bày tư tưởng và phát biểu ý kiến, đặc biệt là những tác phẩm có tính cách
nghiên cứu. Lịch sử tôn giáo cho thấy giáo hội CaTô RôMa đã tìm mọi cách để
ngăn chặn quyền tự do này nhưng đã thất bại và ngày nay giáo hội chỉ có thể
thực thi sự ngăn chặn này, được chừng nào hay chừng ấy, trong nội bộ mà thôi.
Cho nên, đã đến lúc không nên để cho người dân tiếp tục bị lừa dối bởi những
mưu toan xuyên tạc lịch sử, người dân phải biết những sự thực lịch sử để có thể
nhận rõ đâu là con đường dân tộc, và đâu là con đường phi dân tộc, phản dân
tộc, và do đó, định cho mình một thái độ.
Thật
ra, ý định thực hiện cuốn sách này là một ý định đã có từ hơn mười năm về
trước, khi tôi đọc câu dưới đây của Linh mục Lương Kim Định, nguyên giáo sư đại
học Văn Khoa Saigon, trong cuốn Cẩm Nang Triết Việt, trg. 57:
"..sự
truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam gặp quá nhiều xui xẻo bất hạnh gây nên những
vụ bắt bớ đổ máu rất đau thương, và đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống
nhất thành hai phe lương giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức
nhối đầy e dè nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm
đi nhưng xem ra không sao xóa sạch được."
Câu
viết trên của một người thuộc thành phần trí thức lãnh đạo Thiên Chúa Giáo Việt
Nam đã cho chúng ta biết một sự thật: đó là, đại khối dân tộc Việt Nam đang
thống nhất trong tinh thần "Tam Giáo đồng nguyên" từ cả hơn ngàn năm
nay, đã trở thành chia rẽ vì sự du nhập của Thiên Chúa Giáo vào Việt Nam. Vậy,
làm sao xóa bỏ được sự chia rẽ trên, lấy lại được tinh thần hòa hợp cố hữu của
dân tộc, nếu chúng ta không đủ can đảm đối diện với sự thực? Ngoài ra, có một
vấn đề cần được sáng tỏ: có thật Thiên Chúa Giáo đã gặp quá nhiều xui xẻo bất
hạnh khi truyền vào Việt Nam, hay là Thiên Chúa Giáo đã mang đến cho Việt Nam
bao sự xui xẻo bất hạnh?
Muốn
trả lời những câu hỏi này, thiết tưởng không có cách nào khác là tìm hiểu lịch
sử một cách cặn kẽ để tìm ra sự thực... Bưng bít, che dấu sự thực thì vấn đề
vẫn còn nguyên, vậy chúng ta phải trực diện đối đầu với vấn đề để tìm cách giải
quyết. Cuốn sách này hi vọng có thể đưa ra phần nào những sự thực lịch sử tôn
giáo trong thời cận đại ở Việt Nam, hay nói cho đúng hơn, trả lại công bằng cho
lịch sử, một lịch sử đã bị xuyên tạc, diễn giải theo chiều hướng của chế độ
thực dân cùng tay sai bản địa, hoặc của một lực lượng tôn giáo đã nổi tiếng
trong dân gian là phi dân tộc, trong những giai đoạn đen tối của dân tộc.
Hơn
100 năm qua, dân tộc Việt Nam
đã phải trải qua một giai đoạn lịch sử rất đau thương. Trước hết là gần 100 năm
bị Pháp đô hộ. Tiếp theo là 8 năm kháng chiến chống Pháp khi Pháp muốn lập lại
nền đô hộ ở Việt Nam.
Rồi tới 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do ngoại bang chỉ đạo và nắm
quyền thao túng. Trong cuộc chiến gọi là quốc cộng này thì hai bên còn dồn hết
nỗ lực vào một cuộc chiến thắng quân sự. Ngoài Bắc thì chính quyền tập trung
mọi nỗ lực vào mục đích thống nhất quốc gia, cần sự đoàn kết của mọi thành phần
dân tộc. Trong Nam thì Mỹ đã tạo dựng một chính quyền Ngô Đình Diệm mà sử sách
đã gọi là một chính quyền Ca-Tô-Giáo độc tôn, độc đảng, gia đình trị, với mưu
đồ Ca Tô hóa miền Nam bằng cường quyền và bạo lực; và tiếp theo là một chế độ
Diệm không Diệm, kéo dài cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hiển nhiên trong
khoảng thời gian đầy đau thương này, không mấy ai nghĩ đến chuyện tìm hiểu vấn
đề Ca-Tô-Giáo ở Việt Nam vì đây là một đề tài rất tế nhị, có thể đưa tới những
phản ứng xáo trộn trong xã hội vì đụng chạm đến tín ngưỡng của những người
cuồng tín, thiếu hiểu biết về ngay chính tôn giáo của mình, khoan kể đến chính
sách đàn áp những người ngoại đạo của những chính quyền Ca Tô ở miền Nam. Hơn
nữa, trong một bối cảnh lịch sử như trên, một cuộc nghiên cứu nghiêm túc về
toàn bộ vấn đề Ca Tô Giáo ở Việt nam quả là khó thực hiện.
Trong
thời Pháp thuộc, ngoài những sách viết bởi người Pháp, chúng ta có hai cuốn sử
được coi là có giá trị: cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và cuốn Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào Duy Anh. Vì viết trong thời kỳ Pháp đô hộ nên
những sự việc liên quan đến vai trò của các giáo sĩ thừa sai và người Việt Nam
theo Ca Tô Giáo trong cuộc xâm lăng của Pháp không có nhiều. Đặc biệt, các sự
kiện về đàn áp đạo Ca Tô đều dựa vào sách của Pháp và theo luận điệu của các
giáo sĩ thừa sai đương thời, cho nên không phản ánh trung thực vấn đề. Thường
thì người Pháp và các giáo sĩ thừa sai chỉ đưa ra một mặt của vấn đề, nghĩa là
có sự đàn áp Ca Tô Giáo nhưng không đưa ra nguyên nhân, hoặc đưa ra những
nguyên nhân sai lạc với những mưu đồ đen tối. Với những tài liệu mới được phanh
phui ra sau khi chế độ thực dân ở Đông Dương cáo chung, càng ngày người ta càng
tìm ra những luận cứ trái ngược với những nhà viết sử thực dân hay những nhà
viết sử dựa hoàn toàn vào tài liệu của họ.
Thí
dụ, thư loại tham khảo kê trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim gồm
cuốn Cours d'Histoire Annamite của Pétrus Trương Vĩnh Ký, một đại Việt gian
theo Ca Tô Giáo Rô Ma đặc biệt trung thành với Pháp, đã viết thư yêu cầu Pháp
đánh chiếm Việt Nam (xin đọc cuốn Pétrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập của Lê Trọng
Văn và cuốn Pétrus Trương Vĩnh Ký Nhìn Từ Những Khía Cạnh Và Nhận Thức Khác
Nhau của 8 tác giả), và 9 cuốn khác của các tác giả Pháp, và tất cả chỉ có vậy.
Một thí dụ khác là, theo sự phê bình của Giáo sư sử học Mark W. McLeod trong
cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 thì cuốn Việt Nam
Giáo Sử của Linh Mục Phan Phát Huồn hoàn toàn dựa theo những nhà viết sử thực
dân và những giáo sĩ thừa sai chuyên xuyên tạc, phóng đại và bi thảm hóa vấn đề
cấm đạo dưới Triều Nguyễn cho nên chứa nhiều chi tiết sai hẳn sự thực. Lẽ dĩ
nhiên, cuốn sử của Trần Trọng Kim chỉ có một giá trị tương đối thời đại, và
cuốn sử của Phan Phát Huồn thì không thể kể là có giá trị nào đáng kể, vì những
sự kiện và quan niệm cá nhân viết trong đó chỉ có giá trị khi chúng không thể
bị phản bác bởi những công cuộc khảo cứu hiện đại của nhiều người khác về cùng
những vấn đề.
Rất
may là sau khi thực dân Pháp mất quyền đô hộ ở Việt Nam, và trong thời gian Mỹ
tham chiến ở Việt Nam mà khía cạnh tôn giáo không thể phủ nhận, điển hình là
Hồng Y Spellman đã giữ một vai trò quan trọng trong việc đưa Ngô Đình Diệm về
nắm chính quyền miền Nam cũng như đã nhiều lần tới Việt Nam để ủy lạo binh sĩ
Mỹ và khẳng định với binh sĩ Mỹ là họ đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh Ki
Tô Giáo trong một nước mà hơn 90 phần trăm dân chúng đã từ chối nền "văn
minh" này, và nhất là 9 năm cầm quyền của Ngô Đình Diệm với chính sách độc
tôn thiên vị Ca Tô Giáo, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo khác (sau khi Diệm
tiêu diệt các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, những người gia nhập đảng Cần Lao
Công Giáo, đảng phái duy nhất được phép thành lập dưới sự bảo trợ của chính
quyền miền Nam, phải tuyên thệ là phải diệt trừ "Phật Giáo ma quỷ")
thì có nhiều học giả quan tâm đến Việt Nam và muốn tìm hiểu nguyên nhân xa của
các cuộc chiến này, cho nên đã khởi công nghiên cứu lịch sử Việt Nam một cách
khá tường tận, nhất là về vai trò của các giáo sĩ thừa sai Ca Tô ở Việt Nam,
dựa trên những văn kiện lưu trữ trong các văn khố ngoại quốc, kể cả bộ thuộc
địa Pháp và thư viện của hội truyền giáo Pháp, mà tính cách xác thực của những
tài liệu này không ai có thể nghi ngờ hay phủ nhận. Trong những thiên khảo cứu
này, tài liệu tham khảo vô cùng phong phú và minh bạch, vì với phương pháp khảo
cứu và kiểm chứng ngày nay, tác giả khó có thể ngụy tạo văn kiện hoặc viết vu
vơ, vì nó có thể phạm tới uy tín của người viết, phần lớn là học giả, giáo sư
đại học, hoặc những người viết luận án Tiến Sĩ Quốc Gia.
Luận
án Tiến Sĩ Les Missionnaires et la Politique Coloniale Francaise au Việt Nam
của Cao Huy Thuần (bản tiếng Việt: Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại
Việt Nam); luận án Tiến Sĩ L'Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine
(Nước Đại Nam Đối Diện Với Pháp và Trung Hoa) của Yoshiharu Tsuboi; cuốn The
Vietnamese Response to French Intervention: 1862-1874 (Phản Ứng của Việt Nam
Trước Sự Can Thiệp của Pháp: 1862-1874) của Mark W. McLeod, giáo sư đại học
Gonzaga, tiểu bang Washington; cuốn French Catholic Missionaries and the
Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914: A Documentary Survey (Những Thừa
Sai Ca Tô Pháp và Chính Trị Chủ Thuyết Đế Quốc ở Việt Nam, 1857-1914: Một Cuộc
Nghiên Cứu Qua các Tài Liệu) của Patrick J. N. Tuck, giáo sư đại học Liverpool,
Anh Quốc; cuốn Les Missions Étrangères et la Pénétration Francaise au Vietnam
(Những Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Sự Thâm Nhập của Pháp vào Việt Nam) của
Nicole Dominique Le, thuộc Viện Nghiên Cứu và Khảo Cứu các Nhân Chủng và Văn
Hóa khác nhau tại Paris, Pháp; bộ La Geste Francaise en Indochine (Thái Độ của
Pháp ở Đông Dương) của Georges Taboulet, Paris; cuốn Histoire de la Pénétration
Francaise au Viet Nam: 1858 - 1897 (bản tiếng Việt: Bước Mở Đầu của sự Thiết
Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897)) của Nguyễn Xuân Thọ; cuốn Catholicisme
et Sociétés Asiatiques (Chủ Thuyết Ca Tô và Những Xã Hội Á Đông) của Alain
Forest và Yoshiharu Tsuboi; những cuốn Catholic Imperialism and World Freedom
(Chủ Thuyết Đế Quốc Ca Tô và Nền Tự Do của Thế Giới) và cuốn Vietnam: Why Did
We Go (Việt Nam: Tại Sao Chúng Ta Phải Tới Đó) của Avro Manhattan v..v.. là
những công trình khảo cứu rất có giá trị với rất nhiều tài liệu dẫn chứng,
trong đó có những tài liệu mới được mở ra cho công chúng tham khảo, những tài
liệu mà tính chất chính xác của chúng không ai còn có thể nghi ngờ, bàn cãi.
Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến hàng trăm cuốn sách viết về cuộc chiến tại
Việt Nam, trong đó có những
phần viết về vai trò của đạo Ca Tô RôMa tại Việt Nam. Tuy cơ quan truyền giáo của
Pháp còn giữ kín nhiều tài liệu mật, không cho phép các chuyên gia khảo cứu
tham khảo (theo Nicole Dominique Le), nhưng xuyên qua những tài liệu đã được
phanh phui, chúng ta cũng có thể nhìn ra những sự kiện lịch sử liên hệ tới toàn
bộ vấn đề CaTô Giáo RôMa (Công giáo) ở Việt nam.
Tuy
nhiên, chúng ta không thể nào viết về Giáo hội CaTô RôMa ở Việt Nam một cách
chính xác nếu chúng ta không hiểu gì về bản chất của CaTô Giáo RôMa toàn cầu mà
cơ quan đầu não là Tòa Thánh Vatican, về Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, nền tảng
của giáo lý CaTô, về sách lược truyền đạo của CaTô Giáo trên thế giới, nhất là
ở Á Châu, và về những gì mà Ca Tô Giáo RôMa đã mang tới cho nhân loại trong gần
2000 năm qua. Cho nên, để trình bày vấn đề cho đầy đủ, cuốn sách này sẽ gồm có
những chương sau đây:
-
Nhận Định Tổng Quát về Ca Tô Giáo RôMa
-
Lịch Sử Thành Lập Ca Tô Giáo RôMa: Từ Huyền Thoại đến Thực Chất.
-
Lịch Sử Phát Triển của Ca Tô Giáo RôMa ở Âu Châu
-
Sách Lược Bành Trướng Của Ca Tô Giáo RôMa Trên Thế Giới
-
Thánh Kinh Ki Tô Giáo.
-
Học Thuật Ca Tô (Catholic Scholarship)
-
Những Phép Lạ Trong Ca Tô Giáo RôMa
-
Sự Du Nhập Của Ca Tô Giáo RôMa vào Việt Nam
Cuốn
sách này thực ra chỉ là một tập hợp những tài liệu khả tín hiện hữu, phần lớn
do các giới chức trong Ca Tô Giáo RôMa như linh mục, giám mục v..v.. và các học
giả Ca Tô, giáo sư đại học chuyên về tôn giáo viết. Những tác phẩm nghiên cứu
của những vị trên được viết ra để cho những tín đồ có đầu óc khai phóng, nhận
rõ thực chất của tôn giáo mình để đi đến những cải cách tốt đẹp hơn. Trong cuốn
sách này, tôi không làm gì khác hơn là xếp đặt những tài liệu thành hệ thống
theo các chủ đề, với mục đích trình bày cùng quý độc giả nào quan tâm đến vấn
đề mở mang dân trí với lòng mong muốn đưa nước nhà lên mức văn minh tiến bộ của
thế giới, và nhất là quan tâm đến vấn đề hòa hợp trong đại khối dân tộc trong
đó sự hòa hợp tôn giáo là một yếu tố vô cùng quan trọng để cho mọi người dân ý
thức được nhiệm vụ của mình, đặt lòng yêu nước, yêu dân tộc lên trên hết, theo
truyền thống độc lập, không lệ thuộc ngoại bang, về tư tưởng cũng như về vật
chất, của người Việt Nam trong bao thế kỷ qua. Do đó, cuốn sách này có mục đích
trình bày một số sự thực về Ca Tô Giáo RôMa để cho mọi người chúng ta cùng rút
kinh nghiệm, tránh tái vấp phải những sai lầm lịch sử, và từ đó hi vọng sẽ tạo
thêm được hòa khí giữa những người khác tín ngưỡng trong đại khối dân tộc Việt
Nam. George Santayana đã chẳng nói: "Những kẻ nào không biết đến lịch sử
thì thường hay vấp lại những sai lầm của lịch sử" hay sao? Tôi tuyệt đối
tôn trọng tín ngưỡng của bất cứ ai nếu tín ngưỡng này chỉ là thuần túy tín
ngưỡng. Tuy nhiên, tôi không thể không chống những hành động gây tác hại cho
nhân loại nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng, dù những hành động
tác hại này bắt nguồn từ một tín ngưỡng, bất kể đó là tín ngưỡng nào. Những
hành động tác hại này thực sự đã đi ra ngoài phạm vi tín ngưỡng, ảnh hưởng đến
trật tự và sự an sinh của các xã hội. Trong thế giới văn minh tiến bộ đa tôn
giáo này, không một tôn giáo nào có quyền cho rằng tôn giáo của mình là chân
thật duy nhất, nắm trong tay chân lý duy nhất, và do đó có những mưu toan bành
trướng bằng những sách lược tàn bạo, vô đạo đức, để thu nhặt tín đồ cũng như để
tiêu diệt các tôn giáo khác.
Vì
xử dụng khá nhiều tài liệu trong cuốn sách này cho nên khi trích dẫn, để tôn
trọng quyền tác giả, tôi bắt buộc phải dịch nguyên văn những đoạn trích dẫn. Do
đó, nếu trong những đoạn dịch quý độc giả có thấy những danh từ nghe có vẻ khó
nghe, không được nhẹ nhàng và có tính cách xúc phạm thì xin quý độc giả thông
cảm, và nếu có trách thì xin quy trách cho những tác giả của những sử liệu đã
được dẫn chứng. Tôi cố gắng dịch cho sát nghĩa nhưng vì không phải là một
chuyên gia về ngoại ngữ nên rất có thể có những danh từ tôi dịch không được
chỉnh hoặc không được rõ ràng. Vì vậy, tôi luôn luôn kèm theo văn bản gốc để
quý độc giả so sánh và nắm được ý của tác giả.
Hi
vọng cuốn sách này đóng góp được một phần nhỏ trong những công trình nghiên cứu
về Ca-tô Giáo Rô-ma ở Việt nam, sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Tôi xin hoan hỉ đón
nhận mọi phê bình đứng đắn và trí thức, nếu có.
CHƯƠNG I.
NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT VỀ
CA-TÔ GIÁO RÔ-MA (CÔNG GIÁO)
Trước
hết, khi nghiên cứu về lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-Ma (Công giáo) chúng ta cần biết
rõ một sự kiện: lịch sử Ki-tô Giáo (gồm có Do Thái, Chính Thống, Tin Lành, và
Ca-tô Giáo Rô-ma), cho tới Thế Kỷ 16, cũng là lịch sử Ca-tô Giáo Rô-ma (Roman
Catholicism), như Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, trg. 52):
"Khi ôn
lại lịch sử của KiTô Giáo chúng ta cần phải nhớ rằng, trước công cuộc cải cách
(Thế Kỷ 16; TCN), KiTô Giáo như là một tổ chức đồng nghĩa với Giáo hội Ca-tô và
Giáo Hoàng là người cai quản giáo hội đó, cho nên mọi việc xấu ác của KiTô giáo
từ lúc đầu cho tới công cuộc cải cách là trách nhiệm, trực tiếp hay gián tiếp,
của chế độ Giáo Hoàng."
(As
we review the history of Christianity, bear in mind that prior to the
Reformation, Christianity as an institution was synonymous with the Catholic
Church, and the pope was in charge of that church. Therefore, all the evils of
Christianity from its inception to the Reformation were directly or indirectly
the responsibility of the Papacy.)
Thứ
đến, chúng ta cũng cần biêt rõ một sự kiện lịch sử khác: từ thế kỷ 16, Giáo hội
Ca-tô Rô-ma đã liên kết với các đế quốc thực dân Âu châu như Pháp, Anh, Hòa
Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha: hoặc làm đoàn quân tiền phong, hoặc đồng hành,
hoặc theo gót những đoàn quân thực dân đi xâm lăng các nước kém mở mang ở Phi
Châu, Châu Mỹ La Tinh, Tân Thế Giới, và Á Châu, để truyền bá đạo Dê-su bằng
"thập giá và lưỡi gươm", với chính sách cường quyền và bạo lực thắng
công lý, tạo dựng nên một đạo quân thứ 5 bản địa, gây xáo trộn trong các quốc
gia kém mở mang, và phá hủy các nền văn hóa địa phương, đền đài, chùa, miếu của
các tôn giáo khác v..v..
Chính
sách truyền bá đạo bằng bạo lực, dối trá, và sách lược tiêu diệt các nền văn
hóa khác là những sự kiện lịch sử mà chính giáo hội Ca-tô cũng không thể phủ
nhận. Và để xoa dịu dư luận thế giới, Giáo Hoàng đương nhiệm John Paul II đã
thực hiện nhiều chuyến công du tới các nước trong Thế Giới Thứ Ba để xin lỗi
những nước này về những chính sách truyền đạo của giáo hội Ca-tô bằng bạo lực
và cưỡng ép dân bản xứ theo đạo, bằng sự phá hủy các nền văn hóa địa phương,
phá hủy đền đài, chùa miếu, tượng thờ của các tôn giáo khác v...v... đồng thời
kêu gọi giáo dân phải sám hối về những tội ác và bất hạnh mà giáo hội Ca-tô đã
gây ra cho nhân loại.
Giáo
Hoàng phải làm như vậy để vớt vát phần nào uy tín ngày càng suy sụp của giáo
hội trước sự nghiên cứu về những sự kiện lịch sử của giáo hội được trình bày rõ
trong những tác phẩm nghiên cứu của ngay chính một số chức sắc trong Ca-tô giáo
cùng của nhiều học giả và giáo sư đại học chuyên về tôn giáo. Tòa Thánh Vatican đã hoàn toàn yên lặng trước những phanh phui lịch
sử này, dù thế lực về chính trị cũng như về tiền bạc của Tòa Thánh trên hoàn
cầu rất lớn. Điều này chứng tỏ ngày nay Giáo hội Ca-tô đã không còn quyền lực
để bóp nghẹt sự thật như Giáo hội đã làm trong quá khứ. Những tác phẩm nghiên
cứu về lịch sử Gia Tô La Mã Giáo kể trên nay được phổ biến rộng rãi trong các
thư viện đại học và thư viện công cộng, trong các tiệm sách, và trên cả diễn
đàn điện tử Internet. Lẽ dĩ nhiên đa số giáo dân không hề biết đến những công
cuộc nghiên cứu này, và giáo hội đã dùng đủ mọi cách để ngăn chặn sự phổ biến
những tài liệu khảo cứu này đến quần chúng tín đồ. Đây là sách lược cố hữu của
giáo hội: sợ tín đồ mất đi đức tin nên cố giữ họ trong vòng u mê, không biết
đến gì khác ngoài những lời rao giảng sai sự thật và có tính cách vừa đe dọa
vừa nhồi sọ của giáo hội.
Với
những hành động nhận tội với nhân loại như trên, Giáo Hoàng hi vọng thế giới sẽ
quên đi những trang sử đen tối của GiaTô La Mã Giáo với cái chiêu bài (motto)
như sau:
"Xin lỗi
nhé! Nhân danh Chúa của chúng tôi, chúng tôi đã nô lệ hóa các người. Xin lỗi
nhé! Chúng tôi đã giết các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã chia rẽ, xâu xé,
tàn phá quốc gia của các người. Bây giờ các người có thể tin tưởng ở chúng tôi
được rồi."
(Sorry!
In the name of our God, we enslaved you. Sorry! We killed you. Sorry! We
screwed up your country. You can trust us now. (A freethinker on Vietnet)).
Nhưng
thế giới nói chung có lẽ không bao giờ có thể quên được những bất hạnh mà GiaTô
La-Mã Giáo đã mang tới cho nhân loại, vì càng ngày ta càng thấy nhiều sách báo
viết về cái lịch sử tàn bạo này, và Việt Nam nói riêng, có lẽ không bao giờ có
thể quên được cái giai đoạn lịch sử cay đắng gần 100 năm nô lệ và 30 năm chiến
tranh huynh đệ tương tàn của dân tộc mà GiaTô La-Mã Giáo đã dự phần không nhỏ
gây nên với sự phụ giúp của một số lớn tín đồ bản xứ. Niềm tin vào Gia Tô La Mã
Giáo càng ngày càng suy giảm trong các nước văn minh tiến bộ, linh mục và giáo
dân bỏ đạo hàng loạt, các bí tích trở thành mất ý nghĩa, do đó giáo dân không
chịu đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật. Báo Chicaogo Tribune ngày thứ Tư, 8 tháng 7,
1998 loan tin từ Vatican City: "tình trạng suy thoái về niềm tin trầm
trọng đến nỗi Giáo hoàng John Paul II phải ra một thông tri dài 100 trang kêu
gọi tín đồ phải giữ vững niềm tin, đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, nếu không thì
tầm nhìn bị giới hạn, không thể thấy được "Thiên đường." Ở Mỹ, những
cuộc thăm dò cho thấy, chưa đến một phần ba tín đồ Gia Tô đi lễ ngày chủ
nhật" (Pope John Paul II issued a 100-page apostolic letter Tuesday to boost
the dwindling number of Sunday mass-goers...He said "when Sunday loses its
fundamental meaning and becomes merely part of a week-end, it can happen that
people stay locked within a horizon so limited that they can no longer see
"the heavens". His plea was a response to "strikingly low"
church attendance...In the US, surveys estimate that less than a third of
Catholics attend mass on Sunday.)
Điều
đáng buồn là, trước những sự kiện lịch sử hiển nhiên về thực chất của Gia Tô
La-Mã Giáo như trên mà đa số tín đồ kém hiểu biết hoặc thất học như ở Phi Châu,
Châu Mỹ La Tinh, Phi Luật Tân, và một vài vùng ở Việt Nam (số con chiên kém
hiểu biết này chiếm hơn 70% tổng số tín đồ Gia Tô trên thế giới) vẫn còn tin
vào những lời tuyên truyền nhồi sọ xuyên tạc sự thật của giáo hội như: Giáo hội
Gia Tô toàn cầu là một giáo hội thánh thiện, đạo đức, truyền bá "Tin
Mừng" của Phúc Âm, tranh đấu cho hòa bình, hoặc "ý niệm về công bằng,
bác ái, nhân quyền đều phát xuất từ Ki Tô giáo " (Đỗ Mạnh Tri trong Ngón
Tay và Mặt Trăng), "ý niệm tiến bộ của văn minh toàn thế giới đã thoát
thai từ Thiên Chúa Giáo" (Lý Chánh Trung trong Tôn Giáo và Dân Tộc) v...v...
trong khi những sự kiện lịch sử trên thế giới về sự phát triển của Ki Tô Giáo
và những công cuộc khảo cứu của một số giới chức ngay trong "hội
Thánh", của một số chuyên gia , nhà thần học, giáo sư đại học chuyên về
tôn giáo đã chứng minh ngược lại, nghĩa là, Ki Tô Giáo là tổ chức vi phạm công
bằng, bác ái và nhân quyền vào bậc nhất, và nền văn minh hiện đại không thoát
thai từ Thiên Chúa Giáo mà từ sự dũng cảm của những người có đầu óc khai phóng,
bất chấp quyền lực của Giáo hội Gia Tô, và từ những phát minh khoa học bất chấp
sự ngăn chặn của Giáo hội, như sẽ được trình bày trong những chương sau.
Thật
ra, đám người này không đáng trách, vì họ đã bị tẩy não, nhồi sọ như trên từ
khi họ còn nhỏ bởi các cán bộ truyền đạo Gia Tô (linh mục), theo sách lược bưng
bít và tuyên truyền lừa dối của giáo hội trên khắp hoàn cầu với những phương
tiện đầy đủ nhất, những thủ đoạn xuyên tạc sự thật tinh vi nhất, và nhất là họ
không đủ kiến thức và sách vở để kiểm chứng những lời rao giảng của giới linh
mục mà họ được nhồi vào óc từ khi còn thơ ấu là: "Cha cũng như Chúa",
và nhất cử nhất động đều phải tuân theo lời Cha, nếu không là phản Chúa và sẽ
bị đày địa ngục. Một số lớn những cán bộ truyền giáo này cũng không còn tin ở
những giáo lý hay tín lý huyền hoặc nữa, nhưng vì quyền lợi cá nhân, vì địa vị
ăn trên ngồi chốc, vì sự trọng vọng của đám tín đồ thấp kém, nên vẫn tự dối
lòng rao giảng những điều mà chính mình không còn tin.
Nhưng
trong thế giới văn minh Âu, Mỹ thì tình hình lại khác hẳn. Đa số tín đồ Gia Tô
không còn mù quáng tuân phục mọi luật lệ của tòa Thánh Vatican, công khai căng
biểu ngữ và hô khẩu hiệu chống giáo hoàng, coi thường và trực diện chống đối
những tín điều phi lý không hợp thời của giáo hoàng, làm kiến nghị phản đối
những quyết định độc tài của tòa Thánh, đưa các linh mục làm bậy ra tòa, công
khai chống lại những quyết định phi lý, phi dân chủ, phi tự do của các giám
mục, tổng giám mục trong các giáo xứ v...v... Ngoài ra, hàng trăm ngàn linh
mục, hàng triệu tín đồ, đã bỏ đạo vì đã tỉnh ngộ, không thể nép mình tiếp tục
sống trong những sự huyền hoặc phi lý, không hợp với đầu óc tiến bộ của con
người hiện đại. Cũng vì vậy mà John E. Remsburg đã viết trong cuốn False
Claims, trg. 3:
"Trong
những giới thông minh ở Âu châu và Mỹ châu, nền Thần học Ki Tô trên thực tế đã
chết."
(Among
the intelligent classes of Europe and America, Christian theology is
practically dead)
Trải
qua bao thế kỷ, nhiều sự thực về Gia Tô La Mã Giáo (công giáo) đã được phơi bày
trên thế giới, nhưng với chính sách "bịt mắt, bịt tai giáo dân" của
tòa Thánh như cấm tín đồ đọc sách báo viết về thực chất của Gia Tô giáo hay bất
cứ tài liệu nào không hợp với những lời tuyên truyền của giáo hội, đe dọa đày
địa ngục hay dứt phép thông công, không cho hưởng các "bí tích"
v...v..., đa số giáo dân, kể cả một số được gọi là trí thức, vẫn mơ mơ màng
màng về một cái "bánh vẽ trên một thiên đường giả tưởng", (từ của
Linh mục Ernie Bringas: A Pie-in-the-Sky) không cần biết, không cần hiểu về bản
chất thực sự của tôn giáo mình. Đó là lý do Gia Tô La Mã Giáo vẫn còn một số
tín đồ đông đảo ở trong những quốc gia chậm tiến, kém mở mang. Cũng như bao sự
xấu ác vẫn tiếp tục hiện hữu và tồn tại trong nhân loại, sự tồn tại của Gia Tô
La Mã Giáo qua thời gian không phải là một yếu tố để quyết định tôn giáo đó tốt
đẹp hay do Thánh linh phù hộ. Sự tồn tại này tùy thuộc rất nhiều yếu tố, những
yếu tố rất là thế tục. Tôi sẽ bàn sơ về các yếu tố này trong một phần sau.
Vậy,
ngoài những hứa hẹn không thể kiểm chứng về một chỗ trên Thiên đường cho đám
tín đồ nhẹ dạ, cả tin, trong gần 2000 năm nay, Gia Tô La Mã Giáo đã mang lại
cho nhân loại những gì? Trước khi đi vào chi tiết ở một chương sau, chúng ta
hãy duyệt qua những nhận định tổng quát về Ki Tô Giáo (trong bài này nên hiểu
là Gia Tô La Mã Giáo hay Công giáo) của một số danh nhân, học giả trên thế
giới. Sau đây tôi chỉ đưa ra nhận định về Ki Tô Giáo của 81 nhân vật trong số
hàng trăm nhân vật thuộc đủ mọi giới trí thức trong xã hội và xuyên suốt qua
nhiều thế kỷ.
QUA CÁC THỜI ĐẠI
DANH NHÂN TRÍ THỨC ÂU MỸ
NGHĨ GÌ VỀ THIÊN CHÚA, VỀ KI-TÔ GIÁO?
Trong
những phần trích dẫn sau đây, danh từ “tôn giáo” chỉ những tôn giáo độc thần
như Ki Tô Giáo, và danh từ “thần” (God) chỉ vị thần của tôn giáo đó mà các tín
đồ thờ phụng. Những từ này không áp dụng cho Phật Giáo, Lão Giáo hay Khổng
Giáo.
1.
Simonides (556-468 TTL = Trước Thường
Lịch), Thi sĩ Hi Lạp: * Càng suy nghĩ
về chủ đề Thiên Chúa tôi càng thấy nó trở nên tối tăm. (The more I consider
the subject of God, the more obscure it becomes.)
2.
Empedocles (495-435 TTL), Triết gia
Hi Lạp: * Không có Thiên Chúa nào làm
ra thế giới, cũng chẳng có người nào làm ra; thế giới từ xưa vẫn luôn luôn như
vậy.
(None of the gods has formed the world, nor has any man; it has always been.)
3.
Aristotle (384-322 TTL), Triết Gia Hi
Lạp: * Con người tạo ra Thiên Chúa
theo hình ảnh của chính con người, không chỉ theo hình dạng của con người mà
còn theo lối sống của con người. (Men creates gods after their own image,
not only with regard to their form but with regard to their mode of life.)
4.
Demosthenes (384-322 TTL), Nhà hùng
biện thành Athenes: * Chúng ta tin bất
cứ cái gì chúng ta muốn tin. (We believe whatever we want to believe.)
5.
Epicurus (341-270 TTL), Triết Gia Hi
Lạp: * Hoặc Thiên Chúa muốn hủy bỏ sự
ác, và không thể; Hoặc Thiên Chúa có thể hủy bỏ nhưng không muốn.. Nếu Thiên
Chúa muốn, nhưng không thể làm được, Thiên Chúa bất lực. Nếu Thiên Chúa có thể,
nhưng không muốn, Thiên Chúa thật là xấu xa.. Nếu Thiên Chúa không thể và cũng
không muốn, Thiên Chúa vừa bất lực vừa xấu xa. Nhưng nếu (như họ thường nói)
Thiên Chúa có thể hủy bỏ sự ác Và Thiên Chúa thật sự muốn như vậy, Tại sao trên
cõi đời này lại có sự ác? (Either god wants to abolish evil, and cannot; Or he can,
but does not want to; If he wants to, but cannot, he is impotent. If he can,
but does not want to, he is wicked.. If he neither can, nor wants to, He is
both powerless and wicked. But if (as they say) god can abolish evil, And god
really wants to do it, Why is there evil in the world?)
6.
Lucretius (99-55 TTL), Triết Gia La
Mã: * Mọi tôn giáo đều tuyệt vời đối
với người dốt nát, có ích đối với chính trị gia, và lố bịch đối với triết gia. (All religions are
equally sublime to the ignorant, useful to the politician, and ridiculous to
the philosopher.)
7.
Statius (~45-96 TL = Thường Lịch),
Thi sĩ La Mã: * Chính là sự sợ hãi
trong thế giới đã tạo ra các Thiên Chúa. (It was fear in the world that created the
gods.)
8.
Tacitus (55-120 TL), Sử gia La Mã: * Ki
Tô Giáo là một sự mê tín có tính truyền nhiễm.(Như bệnh dịch hạch. TCN) (Christianity is a pestolent superstition.)
9.
Michel de Montaigne (1533-1592), Văn
sĩ Pháp: * Không có gì được tin chắc
bằng những điều mà chúng ta biết ít nhất. (Nothing is so firmly believed as
what we least know); * Những người có
trình độ hiểu biết đơn giản, ít đầu óc tìm tòi và ít học vấn là những tín đồ Ki
Tô tốt
(Men with simple understanding, little inquisitive and little instructed make
good Christians.)
10.
Sir Francis Bacon (1561-1626), Khoa
học gia và triết gia Anh: * Người tin
thuyết Chúa Ba Ngôi tin rằng một trinh nữ chính là mẹ của một đứa con đã tạo ra
bà ta.
(The trinitarian believes a virgin to be the mother of a son who is her maker.)
11.
Ferdinand Magellan (1480-1521), Nhà
hàng hải Bồ Đào Nha: * Giáo hội bảo
rằng trái đất thì phẳng dẹt, nhưng tôi biết rằng nó hình cầu, vì tôi đã nhìn
thấy bóng nó trên mặt trăng, và tôi tin vào một cái bóng hơn là tin vào giáo
hội.
(The church says the earth is flat, but I know that it is round, for I have
seen the shadow on the moon, and I have more faith in a shadow than in the
church)
12.
Thomas Hobbes (1588-1679), Tư tưởng
Gia Anh: * Thần học là vương quốc của
sự tối tăm
(Theology is the kingdom of darkness); * Tôn
giáo giống như những viên thuốc mà người ta phải nuốt chửng cả viên. (Religions are like
pills, which must be swallowed whole without chewing).
13.
Baron de Montesquieu (1689-1755),
thành viên Hàn Lâm Viện Pháp: * Không
có vương quốc nào phải chịu đựng nhiều nội chiến như là vương quốc của Chúa
Ki-Tô
(No kingdom has ever suffered as many civil wars as the kingdom of Christ); * Nếu các hình tam giác mà tạo ra một Thiên chúa thì
chúng sẽ làm cho ông ta có ba cạnh (If triangles made a god, they would give
him three sides); * Lịch sử có đầy
những cuộc chiến tranh tôn giáo; nhưng, chúng ta phải nhận xét cẩn thận, không
phải vì có nhiều tôn giáo mà có nhiều chiến tranh, mà vì tinh thần không khoan
nhượng trong một tôn giáo (Ca-Tô giáo) nghĩ rằng mình có quyền thống trị (History is full of
religious wars; but, we must take care to observe, it was not the multiplicity
of religions that produce these wars, it was the intolerating spirit which
animated that one which thought she had the power of governing).
14.
Voltaire (1694-1778), Văn hào, Triết
gia .. Pháp: * Ki-Tô giáo là tôn giáo
lố bịch nhất, vô lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc thế giới. (Christianity is
the most ridiculous, the most absurd and bloody religion that has ever infected
the world); * Trong 1700 năm, Ki Tô
giáo không làm gì khác ngoài việc gây hại cho nhân loại (For 1700 years, the
Christian sect has done nothing but harm; * Những tín đồ Ki-Tô là những người bất khoan dung nhất (Christians have
been the most intolerant of all men); * Hãy
nghiền nát cái đồ ô nhục (Ecrasez l’infâme! [crush the infamous thing -
Christianity]; * Vô thần là thói xấu
của một số nhỏ những người thông minh (Atheism is the vice of a few intelligent
people); * Thần Ki-Tô luôn luôn ở phía
những tiểu đoàn mạnh nhất (God is always on the side of the heaviest battalions);
* Tai họa giáng vào thế giới qua tội
lỗi của Adam. Nếu cái tên ngu đần ấy không phạm tội, chúng ta đã có thể không
bị làm khổ bởi bệnh đậu mùa, bệnh ghẻ, hoặc môn thần học, hoặc đức tin duy nhất
có thể cứu rỗi chúng ta (Evil came into the world through the sin of Adam. If
that idiot had not sinned, we should not have been afflicted with the smallpox,
nor the itch, nor theology, nor the faith which alone can save us.); * Lời của Thiên Chúa là lời của các linh mục; sự vinh
quang của Thiên Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Thiên chúa là ý
của các linh mục; xúc phạm Thiên chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Thiên
chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests;
the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of
the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to
believe in all that the priests tell us.)
15.
David Hume (1711-1776), Triết gia Tô
Cách Lan: * Những tín đồ Ca-Tô là một
hệ phái trí thức? Trong mọi tôn giáo, tôn giáo vô lý và vô nghĩa nhất là tôn
giáo mà trong đó những người hiến thân cho Chúa ăn thịt Chúa mình sau khi đã
tạo ra ông ấy
(The Roman Catholics are a very learned sect?..Of all religions, the most
absurd and nonsensical is that whose votaries (người hiến thân cho Chúa) eat,
after having created, their deity).
16.
Denis Diderot (1713-1784), Khoa học
Gia Pháp: * Ki-Tô giáo dạy chúng ta
phỏng theo một vị Thiên chúa độc ác, ngấm ngầm, ghen tuông, và không thể nguôi
trong những cơn phẫn nộ của ông ta (The Christian religion teaches us to
imitate a God that is cruel, insidious, jealous, and implacable in his wrath);
* Sự cuồng tín chỉ cách sự man rợ có
một bước
(Fanaticism is just one step away from barbarism); * Hãy xét cái hình ảnh mà người ta vẽ cho chúng ta về
Đấng Tối Cao, người có đầu óc ngay thẳng nhất phải ước rằng hắn ta đừng có hiện
hữu
(Considering the picture that is drawn for us of the Supreme Being, the most
righteous soul must be tempted to wish that he did not exist).
17.
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia
Anh: * Đối với cái nhìn triết lý,
những thói xấu của giới giáo sĩ thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất
nhiều
(To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than
their virtues.); * Những tội nghiêm
trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô (Giáo hoàng John XXIII,
1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và
loạn luân
(The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ (Pope John
XXIII, 1414) was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.)
18.
Pierre Bayle (1647-1706), Triết gia
Pháp: * Về những vấn đề tôn giáo, rất
dễ lừa dối một người, nhưng rất khó mà giải hoặc hắn (In matters of
religion, it is very easy to deceive a man, and very hard to undeceive him); * Không có quốc gia nào hiếu chiến như là những quốc gia
theo Ki Tô Giáo
(No nations are more warlike than those which profess Christianity)
19.
Samuel Butler (1612-1680), Thi sĩ
Anh: * Chúa Ki-Tô chỉ bị đóng đinh
trên thập giá một lần, và trong vài tiếng đồng hồ. Hãy nghĩ tới hàng ngàn người
bị hắn đóng đinh trên thập giá một cách thầm lặng từ khi đó (Christ was only
crucified once, and for a few hours. Think of thousands he has been crucifying
in a quiet way ever since).
20.
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết
gia Anh: * Trong tất cả những tai họa mà
nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới giáo sĩ là tệ hại nhất (Of all the plagues
with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)
21.
Frederik the Great (1712-1786), Vua
nước Phổ: * Mọi nhà thần học đều giống
nhau.. Mục đích của họ luôn luôn là đặt bạo quyền trên tâm thức con người. Do
đó họ khủng bố mọi người chúng ta dám táo bạo phanh phui sự thật (Theologians are all
alike .. Their aim is always to wield despotic authority over men’s
consciences. They therefore persecute all of us who have the temerity to unveil
the truth.)
22.
Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa
Lan: * Người nào đọc lịch sử giới giáo
sĩ không đọc gì khác ngoài sự gian giảo và điên rồ của các giám mục và linh
mục.
(He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of
bishops and churhmen.)
23.
Claude Adrien Helvétius (1715-1771),
Triết gia Pháp: * Chúng ta không bảo
người mà tin rằng ăn thịt Chúa mình là điên; chúng ta bảo rằng điên, một người
nói rằng hắn là Giê-su Ki Tô. (A man who believes that he eats his God we
do not call mad; a man who says he is Jesus Christ, we call mad.)
24.
Baron d’Holbach (1723-1789), Triết
gia Pháp: * Nếu sự không hiểu thiên
nhiên đã sinh ra những thiên chúa, thì sự hiểu biết về thiên nhiên sẽ đi đến
chỗ dẹp bỏ những thần này. (If the ignorance of nature gave birth to the gods,
knowledge of nature is destined to destroy them.)
25.
Benjamin Franklin (1706-1790), Khoa
học gia Mỹ: * Cách nhìn mọi sự việc
bằng đức tin là nhắm con mắt của lý trí. (The way to see by faith is to shut
the eye of reason).
26.
Immanuel Kant (1724-1804), Triết gia
Đức: * Cái chết của tín lý là sự sinh
ra của đạo đức; Lý trí không bao giờ có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên
Chúa
(The death of dogma is the birth of morality; Reason can never prove the
existence of God.)
27.
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh:
* Đạo Ca-Tô Rô-Ma có ít tính chất tôn
giáo hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những
bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của
Chúa
(Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of
civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the
command of Chist himself.)
28.
Lady Mary Wortley Montagu
(1689-1762), Văn sĩ Anh: * Trên khắp
thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie,
and the mob believe, all over the world).
29.
Thomas Paine (1737-1809), triết gia
Anh, tác giả cuốn sách nổi tiếng Thời
Đại Của Lý Trí:
* Cuốn Tân Ước dạy chúng ta những gí?
Tin rằng Đấng Toàn Năng phạm tội lăng nhăng với một người đàn bà đã có chồng;
và tin vào cái chuyện lăng nhăng này gọi là đức tin. (What is the New
Testament teaches us? To believe that the Almighty committed debauchery with a
woman engaged to be maried; and the belief of this debaucery is called faith; *
Nguồn gốc của sự xấu xa nhất, của
những sự độc ác khủng khiếp nhất, và những sự khổ sở to lớn nhất giáng lên đầu
nhân loại là ở trong cái gọi là mạc khải, hay tôn giáo mạc khải (The most detestable
wickedness, the most horrid cruelties, and the greatest miseries that have
afflicted the human race have had their origin in this thing called revelation,
or revealed religion); * Tin vào một
vị Thiên Chúa độc ác làm cho con người thành độc ác (Belief in a cruel
god makes a cruel man.); * Một thầy
giáo giỏi có ích
hơn là 100 linh mục (One good school
master is of more use than a hundred priests.)
The
Age of Reason, trg. 141: "Trong
tất cả những hệ thống tôn giáo hiện hữu, không có tôn giáo nào xúc phạm đến Thượng
Đế, hạ thấp đạo đức con người, ghê tởm đối với lý trí, và tự mâu thuẫn hơn là
cái gọi là Ki Tô Giáo này. Quá vô lý trong niềm tin, quá phi lý trong sự thuyết
phục, và quá bất phù hợp trong sự thực hành, nó khiến cho tâm con người mê muội
hay chỉ tạo ra hoặc kẻ vô thần hoặc kẻ cuồng tín. Như là một cái đầu máy quyền
lực, nó phục vụ cho sự chuyên chế, và như là một phương cách vơ vét của cải, nó
phục vụ cho sự tham lam của giới linh mục, nhưng đối với những phúc lợi của con
người, nó không mang lại được gì, trong đời này cũng như trong đời sau."
(Of
all the systems of religion that ever were invented, there is none more
derogatory to the Almighty, more unedifying to man, more repugnant to reason,
and more contradictory in itself than this thing called Christianity. Too
absurd for belief, too impossible to convince, and too inconsistent for
practice, it renders the heart torpid or produces only atheists or fanatics. As
an engine of power, it serves the purpose of depotism, and as a means of
wealth, the avarice of priests, but so far as respects the good of man in
general it leads to nothing here or hereafter.)
30.
Ethan Allen (1738-1789), Nhà cách mạng Mỹ: * Giáo lý Chúa Ba Ngôi là vô căn cứ, và có khuynh hướng đưa đến mê tín
và thờ hình tượng
(The doctrine of the Trinity is destitute of foundation, and tend manifestly to
superstition and idolatry.)
31.
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng
Thống Mỹ: * Trong mọi quốc gia và
trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do.(In every country and
in every age, the priest has been hostile to liberty). * Thiên Chúa là một nhân vật có những tính cực kỳ độc
ác, bất khoan dung, đồng bóng , và bất công. (The God is a being of terrific
character - cruel, vindictive, capricious, and unjust); * Đã tới 5, 60 năm từ ngày tôi đọc cuốn Khải Huyền, và
từ đó tôi coi nó chỉ là những lời điên dại mê sảng của 1 kẻ cuồng điên (It has been 50 and
60 years since I read the Apocalypse, and I then considered it merely the
ravings of a maniac).
32.
James Madison (1751-1836), Tổng Thống
Mỹ: * Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp
pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp
nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới giáo sĩ, sự ngu
tối và quỵ lụy của giới tín đồ, sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai
giới
(During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on
trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and
indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both,
superstition, bigotry, and persecution.)
33.
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng
đế Pháp: * Hiệp hội Giêsu là hội nguy
hiểm nhất, và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất cả những hội tôn giáo khác (The Society of
Jesus is the most dangerous of orders, and has done more mischief than all the
others); * Kiến thức và lịch sử là
những kẻ thù của tôn giáo (Knowledge and history are the enemies of religion); * Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối
và sai lầm
(Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
34.
Arthur Schopenhauer (1788-1860),
Triết gia Đức: * Bạn có thể ghi nhận
là đức tin và kiến thức thì liên hệ với nhau như là hai cán cân; khi cán cân
bên này lên thì cán cân kia xuống (You may observe that faith and knowledge
are related as the scales of a balance; when the one goes up, the other goes
down); * Những hoa trái của Ki Tô giáo
là chiến tranh tôn giáo, những cuộc tàn sát, những cuộc chiến tranh thập giá,
những tòa án xử dị giáo, sự tiêu diệt các thổ dân Mỹ, và đưa những nô lệ Phi
Châu vào thay thế
(The fruits of Christianity were religious wars, butcheries, crusades,
inquisitions, extermination of the natives in America, and the introduction of
African slaves in their place); * Ca-Tô
giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự
mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic
religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too
troublesome to earn it. The priest are the brokers for it); * Mọi tín lý, bất kể là vô lý tới đâu, khi cấy vào con
người từ nhỏ, chắc chắn là ở trong đó suốt đời (Any dogma, no matter
how extravagantly absurd, inculcated in childhood, is sure to retain its hold
for life.)
35.
Percy Bysshe Shelley (1792-1822), Thi
sĩ Anh: * Ki Tô giáo thật sự cũng phạm
phải nhiều điều độc ác như Do Thái giáo, và còn hơn Do Thái giáo về mức tan
hoang mà nó gây nên. 11 triệu người, đàn ông, đàn bà, và trẻ con bị giết trong
những chiến tranh, bị sát hại trong khi đang ngủ, thiêu sống trong những ngày
hội hè công cộng, đầu độc, tra tấn, ám sát, và cướp bóc trong tinh thần của Tôn
Giáo hòa bình, và cho sự vinh quang của vị Thần nhân từ nhất. Cái tên của Thần
Ki Tô đã làm hàng rào Thánh bao quanh mọi tội ác (Christianity indeed
has equaled Judaism in atrocities, and exceeded it in the extent of its
desolation. 11 million of men, women, and children have been killed in battle,
butchered in their sleep, burned to death at public festivals of sacrifice,
poisoned, tortured, assassinated, and pillaged in the spirit of the Religion of
Peace, and for the glory of the most merciful God.; The name of God has fenced
about all crime with holiness.) * Ki
Tô giáo chất đầy trái đất với quỷ, hỏa ngục với con người, và thiên đường với
những nô lệ
(Christianity peoples earth with demons, hell with men, and heaven with
slaves.)
36.
John Stuart Mill (1806-1873), Triết
gia Anh: * Giáo hội bất khoan dung
nhất trong mọi giáo hội: giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most intolerant of churches, the
Roman Catholic Church.)
37.
Abraham Lincoln (1809-1865), Tổng
Thống Mỹ: * Cả hai (Ca Tô và Tin Lành)
đều đọc cùng một cuốn thánh kinh, cầu nguyện cùng một Thần, và người này viện đến
sự giúp đỡ của Thiên chúa để chống người kia (Both read the same Bible, and pray
to the same God; and each invokes His aid against the other.)
38.
Charles Darwin (1809-1882), Khoa học
gia Anh, nhà lập thuyết Tiến Hóa: * Khoa
học và chúa KiTô chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi không tin đã có một sự mạc
khải nào
(Science and Christ have nothing to do with each other. I do not believe that
any revelation has ever been made).
39.
Charles Dickens (1812-1870), Văn hào
Anh: * Tôi tin rằng sự phổ biến đạo
Ca-Tô là phương cách khủng khiếp nhất của sự thoái hóa chính trị và xã hội còn
sót lại trên thế giới. Những nhà truyền giáo là những kẻ quấy rầy hạng nhất, và
làm cho mọi nơi mà họ tới trở thành tệ hơn (I believe the dissemination of
Catholicity to be the most horrible means of political and social degradation
left in the world. Missionaries are perfect nuisances, and leave every place
worse than they found it.)
40.
Thomas Henry Huxley (1825-1895), Khoa
học gia Anh: * Tín điều về sự không
thể sai lầm của Thánh kinh cũng chẳng hiển nhiên hơn tín điều về không sự sai
lầm của các giáo hoàng (The dogma of infallibility of the Bible is no more
self-evident than is that of the infallibility of the popes.) * Từ một nô lệ của chế đô giáo hoàng, người trí thức đã
trở thành thân trâu ngựa của Thánh kinh (có nghĩa là bỏ Ca-Tô sang Tin lành.
TCN)
From being a slave of the papacy, the intellect was to become the serf of the
Bible.) * Hệ thống giáo sĩ là kẻ thù
sống chết của khoa học. Thuyết tiến hóa loại bỏ thuyết sáng tạo và mọi sự can
thiệp của Thiên chúa
(The ecclesiastical system is the deadly enemy of science. Evolution excludes
creation and all other kinds of supernatural interventions.) * Hoài nghi là bổn
phận cao nhất và đức tin mù quáng là tội không thể tha thứ được (Skepticism is
the highest duty and blind faith the one unpardonable sin.)
41.
Leo Tolstoy (1828-1910) văn hào Nga:
* Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo
hội (Ca-Tô) là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha
trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành (I am convinced that
the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice
a concoction of gross superstition and witchcraft.) * Đúng vậy, tội không chấp nhận một thuyết không hiểu được
là thuyết Ba Ngôi, và huyền thoại về sự sa ngã của con người, vì chúng vô lý
trong thời đại của chúng ta. (It is true, I deny an incomprehensible
Trinity, and the fable regarding the fall of man, which is absurd in our day.)
* Đúng vậy, tôi không chấp nhận cái
chuyện có tính cách xúc phạm về một Thiên Chúa sinh ra từ một trinh nữ đề chuộc
tội cho nhân loại (It
is true, I deny the sacrilegious story of a God born of a virgin to redeem the
race.)
42.
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Đại
Tá, Luật Sư, Nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của Mỹ: * Tôi muốn gì cho ngày giáng sinh? Tôi bắt giáo hoàng
phải vứt đi cái mũ ba tầng của ông ta, cởi bỏ bộ quần áo thiêng liêng của ông
ta, và thừa nhận rằng ông ta không hành động cho Thiên Chúa - không phải là
không thể sai lầm - mà chỉ là một người Ý thông thường. Tôi bắt tất cả những
hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục thừa nhận rằng họ chẳng biết gì về
thần học, về thiên đường hay hỏa ngục, về số phận tương lai của nhân loại, về
quỷ hay hồn ma, về các thiên chúa hay thiên thần. Tôi muốn toàn thể thế giới
không còn bất công, không còn mê tín (What I want for Christmas? I would have the
pope throw away his tiara, take off his sacred vestments, and admit that he is
not acting for god - is not infallible - but is just an ordinary Italian. I
would have all the cardinals, archbishops, bishops, priests admit that they
know nothing about theology, nothing about hell or heaven, nothing about the
destiny of the human race, nothing about devils and ghosts, gods or angels. I
would like to see the whole world free - free from injustice - free from
superstition). * Một thầy giáo giỏi có
giá trị hơn 1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.) * Trong nhiều thế kỷ, cây thập giá và lưỡi gươm là đồng
minh của nhau. Cùng với nhau, chúng tấn công nhân quyền. Chúng chống đỡ cho
nhau
(For many centuries, the sword and the cross were allies. Together they
attacked the rights of man. They defended each other.) * Nếu Ki Tô giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thiên
chúa của Ki Tô giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô giáo hứa hẹn cho các
tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki
Tô Giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ. Nhưng Ki
Tô giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn lắt léo,
không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thần của tôn giáo này không chỉ
dốt nát mà còn ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần
thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (tín đồ hay không.
TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thiên chúa và sẽ bị vĩnh
viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo. (If Christianity were only stupid and
unscientific, if its god were ignorant and kind, if it promised eternal joy to
believers, and if the believers practiced the forgiveness they teach, for one I
should let the faith alone. But there is another side to Christianity. It is
not only stupid, but malicious. It is not only unscientific, but it is
heartless. Its god is not only ignorant, but infinitely cruel. It not only
promises the faithful an eternal reward, but declares that nearly all of the
children of men, imprisoned in the dungeons of god will suffer eternal pain.
This is the savagery of Christianity.)
43.
Mark Twain (1835-1910), Văn hào Mỹ: * Đức tin là tin vào cái mà chúng ta biết nó không như
vậy
(Faith is believing what you know ain’t so). * Không phải là những phần trong thánh kinh mà tôi không hiểu làm tôi
bực mình, mà là những phần mà tôi hiểu (It ain’t those parts of the Bible that I
can’t understand that bother me, it is the parts that I do understand.)
44.
John Burroughs (1837-1921), Văn hào
Mỹ: * Khoa học đã đóng góp cho sự phát
triển của nền văn minh Tây phương trong 100 năm nhiều hơn là sự đóng góp của Ki
Tô Giáo trong 1800 năm. (Science has done more for the development of Western
civilization in 100 years than Christianity in 1800 years.) * Nền văn minh của chúng ta không được xây dựng trên Ki
Tô Giáo mà là trên lý trí và khoa học (Our civilization is not founded upon
Christianity; it is founded upon reason and science.) * Những người hoài nghi và những người không tin (Ki Tô
giáo) không bao giờ có thể giết nhau như những tín đồ Ki Tô đã giết nhau (Skeptics and
disbelievers could never slaughter each other as the Christians have.)
45.
Friedrich Nietzche (1844-1900), Triết
gia Đức: * Thượng đế đã chết (Có đâu để mà chết?
TCN) God is dead. * Chúng ta không nên
đi đến nhà thờ nếu chúng ta muốn hít thở không khí trong lành (One should not go to
church if one wants to breathe pure air.)
46.
Pierre Laplace (1749-1827), Khoa học
gia Pháp: * Kính thiên văn đã quét hết
vòm trời mà không thấy Thiên Chúa ở đâu. (The telescope sweeps the skies without
finding god.)
47.
Sir James Paget (1814-1899), Y sĩ
Anh: * Nơi công cộng cũng như trong tư
gia, tôi không biết một cuốn sách nào mà lại là nguồn gốc của cách xử sự hung
ác và tàn bạo như là cuốn thánh kinh (I know of no book which has been a source
of brutality and sadistic conduct, both public and private, that can compare
with the Bible.)
48.
Thomas Carlyle (1795-1881), Văn hào
Anh: * Thiên chúa chẳng làm gì cả. Một
người có giáo dục, lương thiện, không thể nào còn tin vào Ki-Tô giáo của lịch
sử.
(God does nothing. It is not possible that educated, honest men can even profess
much longer to belief in historical Christianity.)
49.
Alexandre Dumas (1802-1870), Văn hào
Pháp: * Tín đồ Ca-Tô và Tin Lành,
trong khi thiêu sống và giết lẫn nhau, có thể cộng tác để nô lệ hóa những ngưới
anh em da đen của họ
(Catholics and Protestants, while engaging in burning and murdering each other,
could cooperate in enslaving their black brethen.)
50.
Oliver Wendell Holmes, Sr.
(1809-1894), Học giả Mỹ: * Người mà
luôn luôn lo lắng rằng linh hồn mình sẽ bị đầy đọa thường là có một linh hồn
không đáng để đầy đọa
(The man who is always worrying about whether or not his souls would be damned
generally has a soul that isn’t worth a damn.) * Sự thật là cả cái hệ thống tín ngưỡng với chuyện sa
ngã của con người đã rơi ra khỏi sự thông minh của con người sáng suốt (The truth is that
the whole system of beliefs which comes in with the story of the fall of man is
gently falling out of enlightened human intelligence.)
51.
Victor Hugo (1802-1885), Văn hào
Pháp: * Khi anh bảo tôi rằng Thiên
chúa của anh đã tạo ra anh theo hình ảnh của ông ấy, tôi trả lời rằng hắn ta
phải thật là xấu trai
(When you tell me that your deity made you in his own image, I reply that he
must have been very ugly.) * Trong mỗi
làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc
đó: ông linh mục xứ
(There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the
parson.) .
52.
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp:
* Nền văn minh sẽ không đi đến tột
đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên ông
linh mục cuối cùng
(Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the
last church falls on the last priest.) * Phải
chăng khoa học đã thoái lui? Không phải! Chính Ca-Tô giáo đã luôn luôn phải
thoái lui trước khoa học, và sẽ còn bị bắt buộc phải thoái lui (Has science ever
retreated? No! It is Catholicism which has always retreated before her, and
will always be forced to retreat.)
53.
Mikhail A. Bakunin (1814-1876), Văn
hào Nga: * Ki Tô giáo là sự từ bỏ hoàn
toàn lẽ thường và lý trí (Christianity is the complete negation of common sense
and sound reason.) * Thần học là khoa
học về sự nói láo của thần thánh (Theology is the science of the divine lie.)
54.
Ludwig Feuerbach (1804-1872), Triết
gia Đức: * Bất cứ khi nào mà đạo đức
được đặt căn bản trên thần học, quyền của con người tuỳ thuộc vào thần quyền,
thì những sự vô đạo đức, bất công, ô nhục nhất có thể được biện minh và thiết
lập
(Whenever morality is based on theology, whenever right is made dependent on
divine authority, the most immoral, unjust, infamous things can be justified
and established.)
55.
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử
gia Ai Nhĩ Lan: * Hầu hết Âu châu,
trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hoặc với sự
hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền trong giới giáo sĩ (Almost all Europe,
for many centuries, was inundated with blood, which was shed at the direct
instigation or with the full approval of the ecclesiastical authorities). * Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Ca-Tô hay Tin Lành,
đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy
were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or
Protestant, persecution is the result.)
56.
August Bebel (1840-1913), Nhà xã hội
Đức: * Ki Tô giáo là kẻ thù của tự do
và văn minh. Nó buộc nhân loại trong xiềng xích. (Christianity is the
enemy of liberty and of civilization. It has kept mankind in chains.)
57.
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà
lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Ca-Tô, chỉ còn lại
Vatican ngày nay): * Vatican là con
dao găm đâm vào tim nước Ý. (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.) * Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the
personification of falsehood.) * Giáo
hội Ca-Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do (The Catholic Church
is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.)
58.
Elbert Hubbard (1856-1915), Văn hào
Mỹ: * Thiên đường: Ốc đảo Coney (không có thật) trong sự tưởng tượng của người Ki Tô (Heaven: The Coney
Island of the Christian imagination.) * Thiên
chúa: John Doe (1
tên đặt cho một nhân vật mà không ai biết là ai) của triết lý và tôn giáo (God: The John Doe
of philisophy and religion.) * Thần
học là một sự toan tính giải thích một chủ đề bởi những người không hiểu chủ đề
đó
(Theology is an attempt to explain a subject by men who do not understand it).
59.
Sigmund Freud (1856-1939), Nhà Phân
tâm Áo: * Tôn giáo giống như là chứng
bệnh suy nhược thần kinh của trẻ con (Religion is comparable to a childhood
neurosis.) * Giáo hội Ca-Tô là đối thủ
của mọi tự do tư tưởng (The Catholic Church so far has been the implacable enemy
of all freedom of thought.)
60.
George Bernard Shaw (1856-1950), Nhà
viết kịch Anh: * Không phải là không
tin thì nguy hiểm cho xã hội của chúng ta, mà chính là sự tin (It is not disbelief
that is dangerous to our society, it is belief.) * Đối với tín đồ Ca-Tô, chỉ có hai quốc gia, thiên
đường và hỏa ngục; chỉ có hai trạng thái của con người, cứu rỗi hay bị đày đọa (For the Catholic,
there are but two countries, heaven and hell; but two conditions of men,
salvation and damnation.)
61.
George Santayana (1863-1952), Triết
gia Mỹ: * Đối với Shakespeare, về vấn
đề tôn giáo, sự chọn lựa nằm ở hoặc Ki Tô giáo hoặc không tin gì. Ông ta đã
chọn không tin gì
(For Shakespeare, in the matter of religion, the choice lay between
Christianity and nothing. He chose nothing.) * Ki Tô giáo đàn áp tôn giáo, tra tấn và thiêu sống con người. Như một
con chó săn, tôn giáo này đánh hơi và truy lùng kẻ lạc đạo. Tôn giáo này gây
nên những cuộc chiến tranh, và nuôi dưỡng thù hận và tham vọng. Tôn giáo này
thánh hóa sự tận diệt và sự chuyên chế (Christianity persecuted, tortured, and
burned. Like a hound it tracked the very scent of heresy. It kindles wars, and
nursed furious hatred and ambitions. It sanctified extermination and tyranny..)
62.
Bertrand Russell (1872-1970), Triết
gia, Nhà Toán học Anh, tác giả cuốn Why I Am Not A Christian: * Quan điểm của tôi về tôn giáo giống như quan điểm
của Lucretius. Tôi coi nó như là một bệnh chứng xuất phát từ sự sợ hãi và là
nguồn gốc của sự khổ sở không thể kể được của loài người (My own view on
religion is that of Lucretius. I regard it as a disease born of fear and as a
source of untold misery to the human race.) * Nếu tôi nhớ không lầm, không có một lời nào trong các Phúc Âm ca tụng
sự thông minh (So
far as I can remember, there is not one word in the gospels in praise of
intelligence.) * Đàn áp tôn giáo được
sử dụng trong thần học chứ không ở trong số học (Persecution is used
in theology, not in arithmetic.)
63.
Albert Einstein (1879-1955), Khoa học
Gia Do Thái, Thuyết Tương Đối: * Tôi
không thể quan niệm một Thiên Chúa thưởng phạt tạo vật của chính mình (I cannot conceive
of a God who rewards and punishes his creatures)
64.
H. L. Mencken (1880-1956), Văn hào
Mỹ: * Nói một cách đại cương, tôi tin
rằng tôn giáo là một sự nguyền rủa đối với nhân loại (I believe that
religion, generally speaking, has been a curse to mankind.) * Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin
phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an
illogical belief in the occurrence of the improbable.) * Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết
được bằng những lời không đáng để biết (Theology: an effort to explain the
unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.) * Tổng giám mục: một chức sắc Ki Tô cao chức hơn chức
của Chúa Ki Tô (Archbishop:
A Christian ecclesiastic of a rank superior to that attained by Christ.)
65.
Alfred North Whitehead (1861-1947),
Toán gia và Triết gia Mỹ: * Tôi coi
nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại (I consider
Christian theology to be one of the great disasters of the human race)..
66.
Theodore Dreiser (1871-1945), Văn hào
Mỹ: * Mọi hình thức của tôn giáo tín
điều phải dẹp bỏ. Thế giới đã tồn tại mà không cần đến nó trong quá khứ và có
thể cũng như vậy trong tương lai (All forms of dogmatic religion should go.
The world did without them in the past and can do so again.)
67.
Arthur Koestler (1905-1983), Triết
gia Anh: * Tại Jerusalem, cái bộ mặt
giận dữ của thần Gia-vê ấp ủ những phiến đá nóng, những phiến đá đã chứng kiến
những cuộc thánh sát, cưỡng hiếp, và cướp bóc nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế
giới. Dân cư ở đây bị đầu độc bởi tôn giáo (In Jerusalem..the angry face of Yahweh is
brooding over the hot rocks which have seen more holy murder, rape and plunder
than any other place on earth. Its inhabitants are poisoned by religion.)
68.
Edgar Lee Masters (1869-1950), Thi sĩ
Mỹ: * Nhiều cuốn sách đã được viết ra
để chứng tỏ Ki Tô giáo đã làm suy yếu thế giới, rằng tôn giáo này đã gạt ra
ngoài sự khai sáng và trí tuệ của Hellas để nhường chỗ cho một giáo lý mê tín
và ngu xuẩn
(Many books have been written to show that Christianity has emasculated the
world, that it shoved aside the enlightenment and wisdom of Hellas for a
doctrine of superstition and ignorance.)
69.
George Moore (1852-1933), Tiểu thuyết
gia Ai Nhĩ Lan: * Thiên đường có thể để
cho giáo dân, nhưng thế giới này chắc chắn là để cho các linh mục (Heaven may be for
the laity, but this world is certainly for the clergy.)
70.
H. G. Wells (1866-1946), Tiểu thuyết
gia Anh: * Cái đồ xấu ác nhất trong
thế giới ngày nay là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most evil thing in the world
today is the Roman Catholic Church.)
71.
Culbert Olson, Thống đốc bang
California, 1938-1943: * Tôi không
hiểu làm sao mà người nào đọc thánh kinh mà lại có thể tin rằng đó là lời của
Thiên chúa, hoặc tin đó không phải là chuyện man rợ của một dân tộc man rợ (I don’t see how
anybody can read the Bible and believe it’s the word of God, or believe that it
is anything but a barbarous story of a barbaric people.)
72.
Preserved Smith (1880-1941), Sử gia
Mỹ: * Không còn nghi ngờ gì nữa, cuốn
thánh kinh là khối cản trở trên con đường tiến bộ, khoa học, xã hội và ngay cả
đạo đức. Nó được viện dẫn để chống Copernicus (Thuyết trái đất quay
xung quanh mặt trời. TCN) cũng như là
chống Darwin
(Thuyết Tiến Hóa. TCN) (There can be no doubt that the Bible became a stumbling
-block in the path of progress, scientific, social and even moral. It was
quoted against Copernicus as it was against Darwin.)
73.
Isaac Asimov (1920-1992), Khoa học
gia Mỹ: * Đối với tôi, có vẻ như là
Thiên chúa đã được con người phát minh ra một cách thuận tiện; Chắc chắn là tôi
không tin những huyền thoại của xã hội chúng ta, thiên đường và hỏa ngục, Thiên
chúa và thiên thần, Sa-Tăng và quỷ (It seems to me that God is a convenient
invention of the human mind; I certainly don’t believe in the mythologies of
our society, in heaven and hell, in God and angels, in Satan and demons..)
74.
Steve Allen (1921 - ), Mỹ, tác giả 43
cuốn sách đủ loại: * Rất hiếm có một
trang sách nào trong cuốn thánh kinh mà trong đó một người có đầu óc cởi mở
không nhận thấy một sự mâu thuẫn, một chuyện lịch sử bất khả hữu, một sai lầm
hiển nhiên, một sự kiện lịch sử không thể nào xảy ra (There is scarcely a
page of the Bible on which an open mind does not perceive a contradiction, an
unlikely history, an obvious error, an historical impossibility..); * Một người vô thần không ghét Thiên chúa, hắn chỉ không
thể tin được là một Thiên chúa có thể hiện hữu. (An atheist does not
hate God; he simply is one who is unable to believce that a God exist); * Cuốn thánh kinh đã được dùng để khuyến khích niềm tin
vào sự mê tín thô thiển nhất và làm ngăn cản sự dạy những chân lý khoa học (The Bible has been
used to encourage belief in the grossest superstition and to discourage the
free teaching of scientific truths); * Chỉ
sau khi tôi đọc cuốn thánh kinh từ đầu đến cuối tôi mới nhận ra rằng Thiên chúa
trong đó thật sự là một bạo chúa thích trả thù, ác như quỷ, còn ác hơn sự khát
máu điên rồ, sự dã man, sự tàn phá của những con người như Hitler, Stalin, Pol
Pot, hoặc bất cứ kẻ sát nhân tập thể nào trong lịch sử cổ xưa hoặc hiện đại (It was only when I
finally undertook to read the Bible through from beginning to end that I
perceived that its depiction of the Lord God was actually that of a monstrous,
vengeful tyrant, far exceeding in bloodthirstiness and insane savagery the
depredations of Hitler, Stalin, Pol Pot, or any mass murderer of ancient or
modern history.)
75.
Carl Sagan, Khoa học gia rất nổi
tiếng ở Mỹ: * Nếu các bạn muốn cứu con
mình khỏi bị bệnh bại liệt, bạn có thể cầu Chúa hoặc mang nó đi chích ngừa..
Hãy chọn khoa học
(If you want to save your child from polio, you can pray or you can inoculate..
Choose science)
76.
Học giả LLoyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, trg. 455:
"Và ngày
nay (Thời đại Trung Cổ. TCN) Ki Tô Giáo đã thiết lập vững chắc, chúng ta thấy
gì? Thiên đường hạ giới? Trái lại, một sự suy thoái đạo đức và trí thức chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại. Theo Lecky thì "Hai thế kỷ sau thời Constantine là những thời
kỳ mà các Cha Cố tượng trưng cho các thói xấu mang tai tiếng toàn diện."
Và hai thế kỷ tiếp theo cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Giám mục Gregory ở thành Tours viết một bài tường
thuật về những Cha Cố này và đó là một hình ảnh đen tối nhất của suốt dòng lịch
sử. Về thế kỷ thứ 5, một linh mục sử gia, Salvianus, viết như sau: "Trừ
một số rất nhỏ, còn toàn bộ Ki Tô giáo có gì khác hơn là một vũng lầy tội lỗi?
Có bao nhiêu người trong giáo hội không phải là những kẻ say sưa hay loạn dâm,
hay gian dâm, hay cờ bạc, hay ăn cướp, hay sát nhân - hay cùng lúc là tất
cả?" Và chúng ta được bảo rằng Ki Tô Giáo nâng cao giống người, diệt trừ
tội lỗi của người theo đa thần giáo và mở đườìng cho nền văn minh thực sự. Đây
cũng là học thuật của Ca Tô Giáo."
(And
now that Christianity is firmly established, what do we find? "The kingdom
of heaven on earth?" On the contrary, a moral and intellectual degradation
unparalleled in human history. According to Lecky, "The two centuries
after Constantine
are uniformly represented by the Fathers as periods of general and scandalous
vice." And the following two were no better. Bishop Gregory of Tours wrote an account of
them and it is one of the darkest pictures in all history. As for the fifth
century, Salvianus, a priestly historian, had this to say: " Besides a
very few who avoid evil, what is almost the whole body of Christians but a sink
of iniquity? How many in the church will you find that are not drunkards or
adulterers, or fornicators, or gamblers, or robbers, or murderers - or all together?"
And we are told Christianity uplifted the race, rid the world of pagan sin and
paved the way for true civilization. This too is Catholic scholarship)
77.
Học Giả Ki-tô Jack Bays,
The Gospel of Love, trg. 7:
"Đúng vậy,
đó là những gì (thánh chiến, tòa án xử dị giáo, các cuộc tra tấn dã man v..v...
TCN) mà giáo hội đã mang tới cho thế giới thay vì hòa bình và tình huynh đệ
trong phúc âm của tình thương. Nó đã làm cho Ki Tô Giáo thành tôn giáo đẫm máu
nhất đã làm đen tối mặt trái đất. Trong trăm năm qua, 90% các cuộc chiến tranh
là những cuộc chiến tranh Ki Tô trong đó người Ki Tô giết người Ki Tô hay giết
những người khác Ki Tô. Tất cả những vũ khí chiến tranh khủng khiếp, bom nguyên
tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu v...v... đều là những phát minh của người Ki Tô,
được chế tạo và dùng bởi những quốc gia Ki Tô. Trong cuộc chiến tranh nào cũng
có những thầy giảng đạo, linh mục và mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và khuyến
khích sự giết chóc cũng như là tên gìà độc ác Jehovah (Chúa Cha) đã làm đối với
dân Do Thái, khi chúng tàn sát dân của vùng đất hứa, cướp bóc nhà cửa, của cải
và cả con gái của họ."
(Yes,
this is what the church brought upon the world instead of the peace and
brotherhood of the gospel of love. It has made Christianity the bloodiest
religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of
all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians
or someone else. All the the hellish war machines; atomic bombs, poison gas,
war planes, etc.., have been Christian inventions, made and used by Christian
nations. In every war there have been preachers, priests and rabbis on each
side praying and urging on the slaughter just as old brutal Jehovah did for the
Israleites, while they massacreing the people of the promised land, to take
their homes, their stock and their daughters.)
78.
Chuyên Gia về Ca-tô Giáo Rô-ma Avro Manhattan,
Catholic Imperialism and World
Freedom,
trg. 341-365:
" Ki Tô
Giáo không bao giờ cùng nghĩa hay áp dụng những điều tôn giáo này rao truyền,
nhất là khi đối với những sắc dân không theo Ki Tô Giáo. Những công vụ truyền
đạo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo. Những công vụ
truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm đạo quân tiền
phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và những binh đội
Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: những dân
tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào
và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện. Sự chấp nhận,
do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến thắng của
nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có tính cách
thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương - sự thành công
thường thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi.
Những dân tộc
chậm tiến nhưng có nền văn minh cao mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ
bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện
tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và
coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải
giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý
tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân."
"Christianity
never meant or practised what it preached, particularly when dealing with
non-Christian races. Christian missions were never solely Christian missions.
They were invariably preceded, accompanied, or followed by Western warehouses,
Western diplomacy, and Western armies. Whichever the sequence, the result was
eternally the same: the partial or total loss of the regional, national, and
racial liberty of the Asiatics, wherever and whenever the Cross and the Western
Hat had made their appearance. The voluntary or forced acceptance of both was
proclaimed to be the victory of Christian civilization, and Christian
civilization came to mean whatever tended to be dominant - in other words,
whatever was Western - success very often depending on the appearance of naval
squadrons off the coasts... Backward and highly civilized peoples lost their
independence; their cultures were ridiculed, the color of their skin became a
mark of opprobium; their past, present, and even potential future achievements
were scorned and despised... This while, at the same time, Western religion
preached universal brotherhood, Western democracy, the rights of all men, and
Western idealism the equality of all races...)
79.
Học giả Ca-tô Joseph D. Daleiden, The Final Superstition, trg. 169:
"Nói tóm
lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo xưa và nay
phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ
những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở đầu, cho tới những cuộc
thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên
khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và
chống loài người của tôn giáo này."
(In
summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in
both the Old World and the New was due in
large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history,
from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition,
and repression of other cultures throughout the world, Christianity has
demonstrated its destructive antihuman values.)
80.
Tiến sĩ Madalyn O'hair, All The Questions You Ever Wanted To Ask American
Atheists,
Back cover :
"Cái tiền
đề căn bản của Ki Tô Giáo là sự bất khoan nhượng. Tín đồ Ki Tô không thể chỉ
theo tín ngưỡng của mình và để cho mọi người khác theo tín ngưỡng của họ. Giê
Su Ki Tô đòi hỏi rằng các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo người khác (nghĩa là
muốn cho mọi người đều phải tin vào Giê-su) và điều này đã gây nên nhiều sự đau
khổ cho nhân loại hơn bất cứ tôn giáo nào khác. Những vị Thần của tôn giáo đa
thần sống hòa bình với nhau. Nhưng khi Ki Tô Giáo xuất hiện với tính chất riêng
biệt độc nhất của nó, dựa trên điều răn thứ nhất của 10 điều răn, "Ngươi
không được thờ Thần nào khác", thì sự giết chóc bắt đầu'
(The
basic premise of Christianity is intolerance. The Christian cannot just have
his belief and permit everyone else to have theirs. Jesus Christ demanded that
the Christian convert and this has caused more grief to mankind than any other
religion. The old pagan gods lived side by side. But when Christianity came
with its exclusivism, based on the first of the Ten Commandments, "Thou
shalt have no other God before me," the killing began)
81.
Mục sư Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of
Biblical Authority,
trg. 18:
"Ki Tô
Giáo đã để lại một dấu vết kinh hoàng, khổ sở và chết chóc như đã được ghi
trong những trang sử đẫm máu. Và những hiện tượng tàn ác, lố bịch trong sử sách
là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn, đã được gây ra dưới cái ảo
tưởng (đôi khi là cái cớ): đó là sự hướng dẫn của Thượng đế."
(Christianity
has left an appalling trail of misery and death as recorded in the bloodstained
pages of history. And the cruel, grotesque events they record are prime
examples of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometimes pretext)
of divine guidance.)
Trên
đây chỉ là nhận định về Ki Tô Giáo và Thiên Chúa của một một số nhỏ trong số
hàng trăm danh nhân trên thế giới mà vì một lý do hiển nhiên, tôi không thể
liệt kê hết ra đây. Chúng ta nên để ý rằng tất cả những nhân vật mà tôi dẫn
chứng ở trên đều sinh ra và trưởng thành trong những xã hội Ki Tô nói chung, Ca
Tô nói riêng, chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Ki Tô, và chính họ là những người
biết rõ thực chất của Ki Tô Giáo hơn ai hết. Họ là những hạng người nào, địa vị
và uy tín của họ ra sao, họ đã có những đóng góp gì cho nhân loại v..v..? Tên
tuổi của họ và những đóng góp văn hóa của họ, được biết rộng rãi trong giới
hiểu biết trên khắp thế giới, tưởng cũng là một bảo đảm cho giá trị nhận định
của họ mà ít người dám lên tiếng phản bác.
Những
nhận định về Ki Tô Giáo của những nhân vật nổi danh thế giới như trên hiển
nhiên làm cho chúng ta thắc mắc. Vì lẽ gì mà họ đều có những nhận định không
mấy tốt đẹp về Ki Tô Giáo? Phải chăng họ là những người ngoại đạo? Không phải.
Phải chăng họ là những người lạc đạo? Không phải. Phải chăng họ là những người
đầu óc kém cỏi, không nhận ra được những cái hay cái đẹp của Ki Tô Giáo theo
như những lời tự nhận của các giáo hội Ki Tô? Cũng không phải. Đó là những
người có đầu óc khai phóng nhất, thông thái nhất, và lương thiện nhất trong
những tư tưởng của họ, và đã góp phần khai sáng nhân loại không ít.
Một
thắc mắc lớn là, tại sao một tôn giáo thường tự nhận là ánh sáng của nhân loại,
là tình thương của Thượng Đế, là dân chủ, là đạo đức, bác ái v..v.. mà lại có
thể có một lịch sử đen tối như vậy, theo những nhận định như trên? Ngày nay,
phần lớn những nhà khảo cứu về tôn giáo đã đồng ý rằng: những lời tự nhận như
trên của Ki-tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo Rô-ma, thường được giới trí thức
biết dưới danh từ "học thuật Ca Tô" (Catholic scholarship), không dựa
trên sự thực và chỉ là những lời hoa mỹ với mục đích lạc dẫn đám tín đồ kém
hiểu biết, của hàng Giáo Phẩm: Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và
Linh Mục, để duy trì quyền lợi thế tục và giữ tín đồ, và rằng, cái lịch sử đen
tối của giáo hội không phải là do vài cá nhân làm sai ý Chúa mà chính là đường
lối của Giáo hội, bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối một cách mù quáng vào Thánh
Kinh. Một vấn đề được đặt ra là: những nhận định về Ki Tô Giáo như trên đúng
hay sai, có bao nhiêu phần xác thực trong đó? Tính cách xác thực của những nhận
định về Ki Tô Giáo như trên sẽ được chứng minh trong các chương sau, qua sự
khảo sát lịch sử Ki Tô Giáo trong 2000 năm qua, qua sự phân tích Thánh Kinh, và
qua những gì mà Ki Tô Giáo đã mang đến cho nhân loại nói chung, cho dân tộc
Việt Nam nói riêng.
CHƯƠNG II
LỊCH SỬ THÀNH LẬP CA TÔ GIÁO RÔ
MA:
TỪ HUYỀN THOẠI ĐẾN THỰC CHẤT
2.1. Đại Cương về Ca Tô Giáo Rô Ma (Công
giáo).
...TRONG THỜI HIỆN ĐẠI,
TÔN GIÁO CỦA NHIỀU NGƯỜI RẤT CÓ THỂ ĐƯỢC XẾP VÀO LOẠI "ĐẠO GiÊ-SU"
(GIÁM MỤC JAMES A. PIKE:
IN MODERN TIMES THE RELIGION OF MANY COULD WELL BE CATEGORIZED AS
"JESUSISM")
Đạo
Giê-su là đạo của những người tin theo những lời tự nhận như sau của Giê-su: là
"Con Thiên Chúa", là "Đấng Cứu Thế", là "Đấng Cứu Rỗi
Linh Hồn những ai tin Giê-su", là "Đấng sẽ đày đọa xuống hỏa ngục
vĩnh viễn những người nào không tin Giê-su", và tin rằng "đến ngày
tận thế, Giê-su sẽ làm cho xác chết của tất cả mọi người từ trước tới nay sống
lại, tập họp họ lại để cho Cha của ông phán xét, người nào tin Giê-su thì sẽ có
được cuộc sống đời đời bên Giê-su, người nào không tin thì sẽ bị đày xuống hỏa
ngục, bị ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt". Đạo Giê-su nguyên thủy có tên là
đạo Kitô (Christianity), có nguồn gốc xuất sinh từ đạo Do Thái. Giê-su là một
người Do Thái. Vì không ai biết cha thực của Giê-su là ai, trừ bà mẹ là Mary,
nhưng bà lại không nói ra, nên những người tin theo những lời tự nhận của
Giê-su, sau khi ông ta bị đóng đinh trên thập giá cùng một lượt với 2 tên ăn
trộm, và chết đã được vài chục năm, đã thần thánh hóa Giê-su trong cái gọi là
Tân Ước và cho rằng ông ta là con của Thánh Ma (Holy Ghost), một thực thể phi
vật chất. Về sau, Giáo hội Ca-tô dạy rằng, Giê-su thuộc dòng dõi vua David của
Do Thái khi xưa, bố là Joseph, mẹ là Mary, nhưng Joseph lại không phải là cha
của Giê-su, mà cha của Giê-su lại là Thánh Ma. Các tín đồ Ca-tô Việt Nam, từ
trên xuống dưới, đều tin những lời "giáo hội dạy rằng" như trên đều
đúng cả (Xin đọc trong cuốn Chứng Nhân
Hi Vọng
của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, hoặc trong bài của Đức Ông Trần Văn Khả
trong cuốn Trần Lục).
Trong
mấy thế kỷ đầu, đạo Ki-tô gồm nhiều nhóm nhỏ và có nhiều niềm tin khác nhau.
Một vài nhóm tin rằng nhóm mình thực sự là "tông truyền" từ Chúa
Ki-tô. Cho tới thế kỷ 4, giáo hội Rô-ma cũng chỉ là một trong những nhóm nhỏ
như trên, và chỉ trở thành một hệ phái Ki Tô lớn sau khi Vua Constantine tôn
đạo này làm quốc giáo và dùng tiền của mua chuộc và cưỡng bách mọi người phải
theo cái đạo của nhà vua này. Sử sách viết rằng, dưới thời Constantine, người nào theo đạo thì được
thưởng vàng bạc, nô lệ theo đạo thì được thả tự do. Không lạ gì, đạo này càng
ngày càng có thêm nhiều tín đồ. Sau này, ở Việt Nam, từ thế kỷ 17 cho tới ngày nay,
hiện tượng "theo đạo có gạo mà ăn" cũng rất thịnh hành. Vì
Constantine là một Vua La-Mã (Rô-ma) nên sau đó đạo Ki-tô thống nhất dưới tên
Đạo Ca-Tô Rô-ma (Roman Catholicism), với một chủ chăn là một giáo hoàng lo việc
chăn dắt đàn cừu (chiên) non ở dưới.
Năm
1054, một sự phân hóa đầu tiên đã xảy ra trong giáo hội Ca-tô Rô-ma. Một phần
trong giáo hội này bất đồng ý kiến với chế độ giáo hoàng miền Tây (Western
papacy) và tách riêng ra thành "giáo hội miền Đông" (Eastern Church),
còn được biết dưới danh từ "giáo hội chính thống" (Orthodox Church).
Giáo hội chính thống miền Đông này gồm các giáo hội ở Albania, Bulgaria,
Georgia, Greece, Romania,
Russia, Serbia, và Sinai. Ngày nay, giáo
hội miền Đông là tôn giáo chính ở Nga, Đông Âu, Tây Á, và Bắc Phi, với tổng số
tín đồ trên 200 triệu. Phần còn lại vẫn mang tên Giáo hội Ca-Tô Rô-ma.
Năm
1517, một sự phân hóa khác đã xảy ra trong giáo hội Ca-tô Rô-ma. Một linh mục
người Đức, Martin Luther, bất mãn trước chế độ giáo hoàng toàn trị và sự đồi
bại của giáo hội Ca-tô Rô-ma trong việc lợi dụng sự mê tín của đám tín đồ thấp
kém, bán phép giải tội để làm giàu, nên đã tạo lên một phong trào chống đối được
gọi là phong trào Cải Cách Chống Đối (Protestant Reformation), không công nhận
quyền lực của giáo hoàng cũng như không chấp nhận phải trung thành với giáo
hoàng, phản đối việc bán phép giải tội, phản đối việc giáo hội Ca-Tô Rô-ma cấm
tín đồ đọc Thánh Kinh, và đi tiên phong trong việc dịch Thánh Kinh ra tiếng địa
phương. Protestants có nghĩa là "những người phản đối" (those who
protest) nhưng Ca-Tô Rô-ma giáo đã mạ lỵ đạo của những người phản đối
(Protestantism) là "Phản thệ giáo". Dân Việt Nam ta dịch Protestantism
là đạo Tin Lành tuy rằng bản chất của Protestantism cũng chẳng khác gì
Catholicism, và những thứ mà họ rao truyền chẳng có gì có thể gọi là "tin
lành" cả.
Tuy
nhiên, Martin Luther cũng có công lớn đối với nhân loại. Ông là người đầu tiên
dịch Thánh Kinh sang tiếng Đức, và từ đó Thánh Kinh được dịch ra các tiếng địa
phương. Và cũng từ đó những điều sai trái trong Thánh Kinh bị phơi bầy, đại
chúng biết đến những chuyện hoang đường và phi lý trí, phản khoa học trong
Thánh Kinh, và những luận điệu thần học ngụy tạo, lừa dối của các giáo hội
Ki-Tô. Đạo Giê-su bắt đầu suy thoái, mất đi mọi quyền lực thần thánh cũng như
thế tục. Và ngày nay, những người tin Thánh Kinh là những người chỉ nghe nói
đến vài điều vụn vặt trong Thánh Kinh chứ thực sự chính mình chưa bao giờ đọc
Thánh Kinh.
Ca
Tô Giáo Rô Ma đặt nền tảng trên một số huyền thoại trong Thánh Kinh gồm có Cựu
Ước và Tân Ước. Tuy Tân Ước không thể tách rời khỏi Cựu Ước, vì nếu tách rời
thì vai trò cứu rỗi của Chúa Giê Su trở thành vô nghĩa, nhưng vì trong Cựu Ước
có nhiều điều vô lý, mâu thuẫn, tàn bạo, phản khoa học v...v.. nên gần đây giáo
hội Ca Tô đặt nhẹ vai trò của Cựu Ước và dạy các tín đồ Ca Tô rằng: Cựu Ước là
lịch sử của dân Do Thái, Tân Ước mới chính là nền tảng giáo lý của Ca Tô Giáo
RôMa. Dạy sao thì tín đồ nghe vậy, tín đồ chỉ cần sự hứa hẹn của giáo hội là
được Chúa Giê Su cứu rỗi nếu tuyệt đối tuân phục giáo hội và tin theo những tín
lý mà giáo hội đặt ra chứ đâu có cần để ý đến sự mâu thuẫn trong điều giảng dạy
này. Tuy đặt nhẹ vai trò của Cựu Ước, cho đó là lịch sử của dân Do Thái, giáo
hội Ca Tô vẫn dùng những huyền thoại trong lịch sử Do Thái, cho đó là những
chân lý mà tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được lên Thiên đường.
Những huyền thoại trong Cựu Ước như Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ và mọi sự vật
trong đó cách đây khoảng 6 - 7000 năm; Thượng đế lấy đất sét tạo ra Adam, lấy
xương sườn của Adam tạo ra Eve, do đó Adam và Eve trở thành tổ tiên của dân Do
Thái và của cả loài người luôn; Adam cưỡng lời Thượng đế ăn quả trên "trái
cây hiểu biết," do đó tạo thành tội tổ tông, và kết quả là mọi người trên
thế gian đều mắc tội, chịu lời nguyền rủa của Thượng đế và phải gánh chịu tất
cả những khổ đau ở trên đời, nguyên nhân chỉ vì Adam ăn một trái táo v...v...
đã trở thành những tín lý mà các tín đồ Ca Tô phải tin, nếu muốn được lên Thiên
đường cùng Chúa, lẽ dĩ nhiên phải qua ngả Vatican, vì Vatican giữ trong tay cái
chìa khóa mở cửa Thiên đường. Tuy rằng ngày nay tuyệt đại đa số những học giả
và chuyên gia khảo cứu Thánh Kinh cùng các khoa học gia, trước những khám phá
mới nhất về lịch sử nhân loại và khoa học, đều đồng ý rằng Thánh Kinh không
phải là những lời mặc khải của Thượng đế vì trong đó có quá nhiều sai lầm, vẫn
còn nhiều triệu người trên thế giới tin vào những huyền thoại trong Thánh kinh
và cho đó là những chân lý không thể sai lầm. Đây là quyền tự do tín ngưỡng của
mọi người, cũng như chúng ta có quyền tin vào một Thần cây đa hay tin rằng có
chú Cuội ngồi trên cung Hằng. Vì Thượng đế, hay thần cây đa, hay chú Cuội chỉ có
trong niềm tin của những người tin và không ai có thể chứng minh được sự hiện
hữu của Thượng đế v...v..., nên căn bản thì những đối tượng của các niềm tin
đều giống nhau.
Ngoài
những tín lý bắt nguồn từ những huyền thoại trong Cựu Ước như trên, các tín đồ
Ca Tô còn phải tin vào một số tín lý khác mà giáo hội dạy rằng bắt nguồn từ Tân
Ước nhưng thực ra thì những tín lý này thường không có trong Thánh kinh, hoặc
trái ngược với Thánh kinh, hoặc được thêm thắt vào sau, nếu xét theo bối cảnh
lịch sử mà Thánh kinh được viết ra. Về những tín lý này chúng ta có thể kể:
1.
Chúa Giê-su là con của Thánh Linh (Holy spirit).
2.
Chúa Giê-su là hiện thân của Thượng đế (Incarnation)
3.
Thuyết Chúa ba ngôi (Thượng đế, Giê-su, Thánh linh chỉ là một)
4.
Đức mẹ vô nhiễm.
5.
Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
6.
Chúa Giê-su sống lại vào ngày thứ ba sau khi bị đóng đinh.
7.
Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại.
8.
Tin ở Chúa Giê-su thì sẽ được Chúa cứu rỗi, sau khi chết sẽ được lên Thiên đường
ở cùng Chúa.
9.
Trong ngày phán xét cuối cùng (tận thê) Chúa sẽ trở lại trần thế, làm cho kẻ
chết sống lại, rồi mang
tất
cả, nghĩa là không biết bao nhiêu tỷ người đã chết được cứu sống lại, xếp hàng
một trước
mặt
Chúa Cha để cho Chúa Cha phán xét, người nào tin Chúa thì được lên Thiên đường,
người
nào
không tin thì bị luận phạt và vĩnh viễn bị đày hỏa ngục.
Giáo
Hoàng là "đại diện của Chúa" trên trần, nắm trong tay những chìa khóa
mở cửa Thiên
đường.
Các
tín đồ Ca Tô giáo bắt buộc phải tin những tín lý như trên, không tin thì không
phải là tín đồ Ca Tô, và lẽ dĩ nhiên không được Chúa cứu rỗi, cho lên Thiên
đường ở cùng Chúa. Và Thánh Kinh được coi như là chứa những chân lý mặc khải,
không thể sai lầm. Những tín lý như trên và chân lý Thánh Kinh là những điều
thế giới Ki Tô tin và tuyệt đối chấp nhận, không bàn cãi...cho đến thế kỷ 17.
Rồi những đầu óc khai phóng của Voltaire, Diderot, Thomas Paine, Baron
d'Holbach, Johann Salamo Semler, Samuel Reiramus, J. G. Eichhorn, G.L. Bauer
v...v... bắt đầu đặt nghi vấn về tính chất xác thực lịch sử của Thánh Kinh. Sự
phê phán Thánh Kinh tiếp tục trong thế kỷ 18 và kéo dài cho tới ngày nay. Ba
tác phẩm cận đại được thế giới biết đến nhiều nhất là: Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) của Thomas Paine, Tại Sao Tôi Không Phải Là Một Tín Đồ Ki Tô (Why I Am Not A
Christian) của Bertrand Russell, và cuốn Người
Chống Chúa Ki-Tô
(The Anti-Christ) của Frederik Nietzche. Hiện nay, càng ngày càng có nhiều công
cuộc nghiên cứu, phân tích và phê bình Thánh Kinh.
Đặc
biệt là cuốn Cuốn Thánh Kinh Mang Tới
Tin Xấu: Cuốn Tân Ước
(The Bad News Bible: The New Testament (1995)) của David Voas trong đó tác giả
phân tích từng câu trong Tân Ước, và cuốn Năm Phúc Âm: Giê-su Đã Nói Những Gì? (The Five Gospels: What Did Jesus
Say? (1996)) của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh (The Jesus Seminar) gồm khoảng 200
học giả, chuyên gia thuộc mọi hệ phái Ki Tô , trong đó các tác giả đồng ý là
hơn 80% những điều viết trong Tân Ước không phải là Giê-su nói và Giê-su không
hề làm bất cứ một phép lạ nào như Tân Ước đã mô tả.
Kết
quả những cuộc nghiên cứu về Thánh Kinh xuyên suốt qua nhiều thế kỷ đã được tóm
tắt như sau bởi Linh mục Ernie Bringas (Ibid., trg. 91):
"Với
sự tái khám phá phương pháp khoa học trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sự tiến triển
tiếp theo của thời đại Khai sáng trong thế kỷ 18, một sự phân tích Thánh Kinh
một cách thuần lý hơn là điều không thể tránh được. Trong một thế giới đang trở
thành hướng theo tinh thần khoa học, những mô tả về Chúa đi trên sóng, về ma
quỷ, thiên thần, những câu chuyện về sự sống lại của Chúa, và nhiều hiện tượng
khác, càng ngày càng khó có thể chấp nhận như là những sự thực lịch sử.
Trong
những năm 1835-1836, cuốn Khảo Sát Cặn Kẽ Về Đời Sống của Giê-su (The Life of
Jesus Critically Examined) của D. F. Strauss đã quy một số chuyện trong Tân Ước
là "huyền thoại" và định nghĩa những câu chuyện phi lịch sử như trên
là sự biểu thị của một chuỗi những ý tưởng tôn giáo. Ngày nay, kết quả những
cuộc nghiên cứu phân tích tiếp tục hỗ trợ và xác nhận sự khẳng định này. Đa số
các học giả coi những chuyện trong Tân Ước và bảy giáo điều giáo hội đưa ra sau
đây đều là huyền thoại:
1.
Đức Mẹ đồng trinh
2.
Hiện thân của Chúa (Thượng đế hiện thân thành người, nghĩa là, Thượng đế là
Giê-su.)
3.
Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa
4.
Sự sống lại của Chúa.
5.
Sự thăng thiên của Chúa (Thân xác Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại)
6.
Chúa trở lại trần (để làm sống lại những người chết cho ngày phán xét cuối
cùng)
Ngày
phán xét cuối cùng (Chúa Cha phán xét luận tội mọi người trong ngày Giê su trở
lại trần
thế
(With
the rediscovery of the scientific method in 16th-century Europe
and the subsequent evolvement of the Enlightenment during the 18th-century, it
was inevitable that a more rational analysis of Scripture would occur. In a
world becoming scientifically oriented, descriptions of walking on water, of
demons, angels, resurrection stories, and other phenomena grew increasingly
unacceptable as historical realities.
In
1835-1836, The Life of Jesus Critically Examined, by D. F. Strauss, referred to
some NT narratives as "myth" and defined those unhistorical elements
as expressing a series of religious ideas. Today, analytical studies continue
to support and confirm this assertion. The majority of scholars regard the
following NT accounts and Church-developed doctrines as myth:
1.
The virgin birth
2.
The Incarnation (God in human form; that is, God as Jesus)
3.
The work of Atonement (plan for salvation)
4.
The resurrection
5.
The ascension (Jesus' bodily ascent into heaven 40 days after the resurrection)
6.
The Second Coming (the return of Jesus to raise the dead and to summon all to
the Last Judgment)
7.
The Last Judgment (the judgment of all by God at Christ's Second Coming)
Trên
đây là những tín điều tạo thành nền tảng tín ngưỡng của Ca Tô Giáo Rô Ma. Bản
chất tín ngưỡng này có thể vô hại vì tùy theo căn trí mỗi người, mỗi căn trí
thích hợp với một loại tín ngưỡng, ai muốn tin gì thì tin. Nhưng bất hạnh thay,
như Tiến Sĩ Madalyn O'Hair đã nhận định ở trên:
"Tín
đồ Ki Tô không thể chỉ theo tín ngưỡng của mình và để cho mọi người khác theo
tín ngưỡng của họ. Giê Su Ki Tô đòi hỏi rằng các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo
người khác (nghĩa là ép buộc mọi người đều phải tin vào Giê-su) và điều này đã
gây nên nhiều sự đau khổ cho nhân loại hơn bất cứ tôn giáo nào khác."
Do
đó, với tâm cảnh cuồng tín, mà theo định nghĩa của giáo sư sử học Nguyễn Mạnh
Quang trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, 1954-1963, thì cuồng tín
là sự tổng hợp của Ngu đần, Dốt, và Hợm Hĩnh (Huênh hoang, khoác lác), Giáo hội
Ca Tô Rô Ma, với những phương pháp "cải đạo" đẫm máu nhất trong lịch
sử thế giới, đã mang đến cho nhân loại những thảm họa vô tiền khoáng hậu với
kết quả là hàng triệu sinh linh bị đàn áp, tra tấn, treo cổ, cắt cổ, thiêu sống
v..v.. như sẽ được chứng minh trong những phần sau đây. Trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc, trg. 74-75, ông Lý
Chánh Trung, một nhà trí thức Gia Tô cũng công nhận giáo hội có những hành động
bạo tàn để mở mang nước Chúa, nhưng ông khéo léo biện hộ cho những hành động đó
bằng câu:
"
Những hành động nói trên không phải bắt nguồn từ một khuynh hướng đế quốc mà từ
cái ý thức rất chân thành và nghiêm chỉnh của giáo hội về sứ mạng cao cả của
mình: mang sự thật đến cho nhân loại."
Chỉ
có điều, ông Lý Chánh Trung không cho độc giả biết cái sự thật ông viết ở trên
là sự thật nào, như thế nào? Sự thật theo quan niệm của riêng Ca Tô Giáo dựa
vào những huyền thoại trong Thánh Kinh như Linh mục Bringas đã viết ở trên, hay
là một sự thật phổ quát như một thuyết lý khoa học có thể áp dụng ở mọi nơi,
mọi thời điểm trên địa cầu. Nếu ông muốn nói sự thật trên là sự thật trong Phúc
Âm thì ông giải thích làm sao những sai lầm và mâu thuẫn nằm trong Phúc Âm. Vả
chăng, trong Phúc Âm làm gì có sự thật. Thật vậy, Regina Schwartz, giáo sư dạy
Thánh Kinh trong 20 năm qua tại hai đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ là đại học
Northwestern, Illinois, và đại học Duke, North Carolina, sau nhiều năm suy tư
và nghiên cứu, đã xuất bản cuốn Lời
Nguyền của Cain: Di sản bạo tàn của Tôn Giáo Độc Thần (The Curse of Cain:
The Violent Legacy of Monotheism), và dạy sinh viên bài học: "không làm gì có chân lý Phúc Âm" (Northwestern
University professor's lesson: There are no Gospel truths). Cuốn sách này đang
được đề nghị trao giải thưởng Pulitzer về loại tác phẩm nghiên cứu. Giáo sư
Schwartz cũng nhận ra rằng sinh viên ngày nay tin rằng Thượng Đế là do con
người tạo ra theo hình ảnh con người thay vì ngược lại, với những thuộc tính
của con người như tham lam, hẹp hòi, ghen tuông, và sợ hãi được gán cho Thượng
Đế. (...students come to believe that God is more often created in the image of
man than the other way around. That is, mankind's greed, pettiness, jealousies
and fears are often projected onto God).
Ngoài
ra, chưa kể đến chuyện, gần 2000 năm nay, con đường thi hành "sứ mạng cao
cả" của giáo hội là một con đường chồng chất xương máu của hằng triệu
người vô tội trong đó có cả những ông già, bà cả, phụ nữ và con nít, với mục
đích ép buộc con người tin vào "sự thật" của Ca Tô Giáo. Dù vậy mà
ngày nay, hơn 80% dân chúng trên thế giới, nghĩa là vào khoảng trên 4 tỷ người,
vẫn từ chối sự thật của Ca Tô Giáo hoặc càng ngày càng có nhiều người từ bỏ sự
thật này khi biết hồn xác mình đã bị nhốt trong những sự huyền hoặc. Mặt khác,
bản chất đế quốc của Ca Tô Giáo Rô Ma là một sự kiện không ai có thể phủ nhận,
kể cả Giáo hoàng và tòa Thánh Vatican.
Cũng chẳng nên trách ông Lý Chánh Trung vì ông chỉ nhắc lại những điều
"giáo hội dạy rằng" mà không tìm hiểu về bản chất của giáo hội. Vả chăng,
vào thời điểm ông viết cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc, chưa có vụ Giáo hoàng thú nhận
trước thế giới bản chất đế quốc của giáo hội và ra lệnh cho tín đồ Gia Tô phải
ăn năn thống hối trước thiên niên kỷ mới.
Qua
những sự kiện lịch sử trên, khảo sát về lịch sử CaTô Giáo Rô Ma, đa số học giả
đã đồng ý ở một điểm: đó là một lịch sử đẫm máu của gần 2000 năm đầy tội ác,
phi luân lý, phi đạo đức; một lịch sử đã mang quá nhiều bất hạnh to lớn tới
nhân loại so với những việc từ thiện bác ái , thường là thực hiện với chủ đích
dùng bả vật chất để thu nhặt tín đồ, mà Giáo hội CaTô thường vẫn thổi phồng để
cho thế giới quên đi, không nghĩ đến cái lịch sử đen tối của Giáo hội. Tôi sẽ
trở lại thực chất của những hoạt động từ thiện của Ca Tô giáo trong một đoạn
sau. Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một nhận định tổng quát của B. S. Rajneesh
trong cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests &
Politicians: The Mafia of the Soul), trg. 25):
"Nếu con
người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào KiTô giáo, đặc biệt là Ca Tô giáo.
Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua chỉ là những
xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Gia Tô."
(If
people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity,
particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their
orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics.)
Hiện
nay số tài liệu khảo cứu về CaTô Giáo Rô Ma rất phong phú. Đã có những công
cuộc nghiên cứu và viết thành sách với đầy đủ tài liệu xác tín về mọi khía cạnh
của tôn giáo này. Hiển nhiên là trong phạm vi cuốn sách nhỏ này tôi không thể
đi vào chi tiết của tất cả những đề mục đã được khảo cứu về Ca Tô Giáo Rô Ma,
mà chỉ có thể khảo xát một số chủ đề chính liên hệ tới lịch sử bành trướng của
đạo Ca Tô trên thế giới và những hành động của tôn giáo này đối với nhân loại.
Còn
những chủ đề phụ, phần lớn thuộc nội bộ giáo hội Ca Tô Rô Ma, thí dụ như: Linh
Mục bỏ đạo, Linh Mục cưỡng hiếp các “sơ”, cưỡng bách tình dục các em trợ tế và
nữ tín đồ, Linh mục đồng giới tình dục, Linh mục nghiện rượu, những triều đại
dâm loạn của một số giáo hoàng v...v..., nếu cần, tôi chỉ duyệt phớt qua chứ
không đi vào chi tiết của những chủ đề này.
2.2.
Lịch Sử Thành Lập Ca Tô Giáo Rô Ma.
Ai
là người sáng lập ra Ki Tô Giáo? Các tín đồ Ca Tô đều tin, theo lời "giáo
hội dạy rằng", Chúa Giê-su chính là giáo chủ, ủy quyền cho Thánh Phê-Rô
(Peter) thành lập giáo hội, dựa trên vài câu trong Thánh Kinh, diễn giải ngoài
toàn bộ vấn đề (out of context). Theo Mã-Thi-Ơ (Matthew) 16: 18-19 (chương 16,
đoạn 18-19) thì Giê-su nói với Phêrô như sau: "Ta cho ngươi biết, ngươi là Phêrô, và trên phiến đá này ta sẽ xây
dựng giáo hội của ta...và ta sẽ cho ngươi những chìa khóa của thiên đường” (And I also say to
you that you are Peter, and on this rock I will build my church...and I will
give you the keys of the kingdom of heaven). Do đó, theo sự diễn giảng của Giáo
hội, Phêrô là vị giáo hoàng đầu tiên của giáo hội do Chúa thành lập, và chế độ
giáo hoàng được thành lập với giáo điều: các giáo hoàng đều được coi là kế vị
Phêrô, đại diện của Chúa (Vicars of Christ) trên cõi trần, và nắm trong tay
những chìa khóa mở cửa thiên đường. Đó là lý do tại sao các tín đồ Ca-Tô không
thể hiệp thông thẳng với Chúa mà phải qua ngả giáo hoàng hay ngả Vatican, và
giáo hoàng có quyền tuyệt thông tín đồ, nghĩa là không cho tín đồ hiệp thông
với Chúa, và không mở cửa thiên đường cho tín đồ nào không trăm phần trăm tuân
phục giáo hoàng. Giáo hội biết rõ tâm lý của những tín đồ kém hiểu biết và do
đó khai thác triệt để lòng mê tín của đám tín đồ này.
Nghiên
cứu Thánh kinh, các học giả đã tìm ra nhiều điều kỳ thú trong giáo điều như
trên của giáo hội Ca Tô mà mục đích chỉ là để tự tạo quyền lực thế tục, ngụy
trang dưới lốt thần thánh, nắm giữ đầu óc mê mẩn của các tín đồ.
Thứ
nhất, Giê-su không bao giờ có ý định thành lập một giáo hội vì một lẽ rất đơn
giản: vào thời của Giê-su danh từ giáo hội (church) chưa hề có và không ai biết
ý nghĩa của giáo hội ra sao. Khi đó, danh từ thông dụng trong các hoạt động tôn
giáo trong xã hội là "synagogue" nghĩa là giáo đường, một nơi tập họp
để giảng đạo. Danh từ nguyên thủy Hi Lạp là ecclesie, có nghĩa là một cuộc hội
họp - không có giáo hoàng, linh mục, hệ thống giáo quyền (Jesus was not
speaking of that institution we call the Church, Catholic or otherwise, in
fact, there was no such word or institution in his time. The original was the
Greek ecclesie, and it meant only a gathering, an assembly - no pope, no
priest, no hierarchie: Graham, Ibid., p. 441).
Thứ
nhì, sau khi trao chìa khóa thiên đường cho Phêrô (Matthew 16: 19), chỉ bốn câu
sau, Matthew 16: 23, Giê-su gọi Phêrô là Satan: "Chúa quay lại và nói với Phê rô: "Hãy ra đằng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc
phạm đối với ta"(But He turned and said to Peter, "Get behind Me, Satan!
You are an offence to Me.."). Nếu chúng ta có thể tin được những điều các
tín đồ CaTô tin thì Chúa Giêsu được coi là toàn trí, nghĩa là biết hết quá khứ
vị lai, vậy khi Chúa gọi Phêrô là quỉ Satan tất phải có lý do. Lý do đó là Chúa
đã biết trước là Phêrô sẽ phản bội Chúa, ba lần chối là biết Chúa khi Chúa bị
bắt mang đi đóng đinh trên thập giá. Hơn nữa, Phê-rô là một người đánh cá, trí
tuệ kém cỏi, theo Chúa chỉ vì Chúa trổ tài đánh cá cho Phê rô coi. Thế mà Chúa
lại trao chìa khóa thiên đường cho Phêrô và ủy thác cho Phêrô thành lập giáo
hội Ca Tô Rô Ma. Hay là Chúa đã biết trước là sau này, sự truyền đạo của Giáo
hội Ca Tô chỉ thành công trong những làng đánh cá hoặc những nơi mà dân chúng
có mức trí tuệ như Phê rô, như lịch sử phát triển của Ca Tô Giáo Rô Ma đã chứng
minh. Về sự mâu thuẫn và phi lý trong câu chuyện trên, Lloyd Graham bình luận
như sau:
"Như vậy
là Giáo hội CaTô được thành lập bởi Phêrô, người mà, chỉ bốn câu sau trong
Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu Giáo hội CaTô được thành lập bởi Phêrô
thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan - một sự kiện mà chúng ta đã nghi
ngờ từ lâu
(Xét đến lịch sử đầy tội ác của Giáo hội CaTô Rô Mã thì nhận xét trên của
Graham không phải là vô lý. TCN).
Câu
chuyện về Phêrô thậm vô nghĩa - một người chết như mọi người mà lại có quyền
lực trên khắp nhân loại trong muôn đời muôn kiếp. Trong những vấn đề tôn giáo,
những tín đồ CaTô thật là nhẹ dạ, cả tin, nhưng họ có thể nhẹ dạ đến mức tin
rằng, trước khi có Ki Tô giáo, những bậc thông thái như Pythagoras, Plato,
Socrates... cần đến cái tên đánh cá Do Thái ngu đần này (Phêrô) để đầy đọa hay
cứu vớt linh hồn họ hay không? Nhất định là không, và chúng ta cũng vậy."
(Thus
the Catholic Church is founded on Peter whom, four verses later, Jesus openly
calls Satan. Thus if the Catholic Church is founded on Peter, it is founded on
Satan - a fact we have long suspected.
Peter's
story is the veriest nonsense - one mortal man endowed with the power over all
humanity for all eternity. In things religious, Catholics are indeed credulous
but can they be so credulous as to believe that pre-Christian sages like
Pythagoras, Plato, Socrates..require this ignorant Jewish fisherman to bind and
loose their souls? No, and neither are we.)
Thứ
ba, theo Thánh Kinh thì Giê-su tin rằng chính mình là đấng cứu thế của dân Do
Thái, ngày tận thế sắp tới (Matthew 10:23, 16:28, 24:34; Mark 9:1, 13:30; Luke
21:30; Rom 13:11)và Giê-su sẽ trở lại thế gian (second coming) với khí thế: "Tóc trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng
như ngọn lửa, chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ.
Tay phải Ngài cầm bảy ngôi sao, miệng cắn
thanh gươm hai lưỡi sắc bén" (Thánh Kinh: Cựu Ước và Tân Ước, Nguồn Sống,
1994: Cuốn Khải Huyền, Chương 1, đoạn 14-16 (Rev.: 1: 14-16).
Cứ
tưởng tượng ra hình ảnh rùng rợn của một hung thần như trên là đêm ngủ đã không
tránh khỏi ác mộng rồi, huống hồ sống vĩnh viễn bên cạnh Chúa trên thiên đường
thì cái nghiệp của những người được Chúa cứu rỗi chắc phải là nặng lắm. Nhưng
có điều an ủi là, ngày nay, qua các công cuộc nghiên cứu Thánh kinh, đa số học
giả đã cho rằng nhiều chuyện trong Thánh Kinh là những chuyện hoang đường, và
đối với một số học giả thì những điều Chúa Giê-su tự nhận như: con duy nhất của
Thượng đế, có khả năng rửa sạch tội lỗi của nhân loại, là đấng cứu thế, trở lại
trần để cứu tất cả những người chết sống lại v...v... đều là những ảo tưởng của
một người bị bệnh tâm thần, mắc bệnh-chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng
này bắt nguồn từ một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và
tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình
những quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi của nhân loại
v...v...Đó là kết luận của những nhà phân tâm học, điển hình là Bác sĩ George
de Loosten, Bác sĩ William Hirsch, Bác sĩ Binet-Sanglé, sau khi nghiên cứu từng
lời, từng hành động của Giê-su trong Thánh Kinh. Tôi xin miễn đi vào chi tiết
của những công cuộc khảo cứu phân tâm học này vì nó dài và phải viện dẫn nhiều
trong Thánh Kinh.
Trở
lại vấn đề Chúa Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới ngay trong thế hệ của
người, chúng ta có thể trích dẫn 2 đoạn trong Thánh Kinh:
Matthew
16:17-18: "Ta sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của cha ta để
thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta bảo đảm với các người, vài người
đang đứng đây sẽ vẫn còn sống cho đến khi thấy ta đi vào trong vương quốc của
ta." (For the Son of Man will come in the glory of his Father with his
angels, and then he will reward each according to his work. Assuredly, I say to
you, there are some standing here who shall not taste death till they see the
Son of Man coming in his kingdom)
Mark
9:1: Và Chúa nói với các môn đệ: "Ta bảo đảm với các người là vài người
đang đứng nơi đây sẽ vẫn còn sống cho tới khi thấy vương quốc của Thượng đế đầy
uy quyền" (And He said to them, "Assuredly, I say to you that there
are some standing here will not taste death till they see the kingdom of God
present with power)
Hai
đoạn trên trong Thánh Kinh cho chúng ta thấy rõ hai điều:
Thứ
nhất, Chúa đã thất hứa vì sau khi bảo đảm với các môn đệ như trên, Chúa đã biến
đi đâu mất, cho tới ngày nay vẫn chưa trở lại. Vậy, trong gần 2000 năm nay,
Chúa ở đâu? Có người phân tích Thánh Kinh cho rằng Chúa đang ở dưới địa ngục
(Matthew 5:22 & Matthew 23: 17,19), nhiều người thì lại tin rằng Chúa đang
ở trên Thiên đường. Nhưng dù ở đâu thì suốt 2000 năm nay cũng không ai thấy
bóng dáng Chúa đâu, để cho các tín đồ dài cổ ra ngóng đợi ngày Chúa trở lại
trong "vinh quang của Cha ta" và lập nên "vương quốc Thiên
đường". Chúng ta cũng nên biết rằng, đã nhiều lần, một số chức sắc trong
Ki Tô Giáo đã tiên đoán ngày Chúa trở lại và dạy con chiên dọn mình đón Chúa,
nhưng tất cả đều là những lời lừa bịp, có nơi vị "lãnh đạo" tôn giáo
này phải trốn chạy trước sự phẫn nộ vì bị lừa của đám tín đồ. Tuy vậy mà cũng
còn có nhiều người tin Chúa sẽ trở lại năm 2000, theo lời "tiên đoán"
của một số nhà truyền giáo. Và họ đã thất vọng vì chuyện này không hề xảy ra.
Thứ
nhì, Chúa đã đoan quyết rằng ngày tận thế đã gần kề như đã viết trong Thánh
Kinh, vậy Chúa còn bảo phiến đá Phê rô xây dựng giáo hội để làm gì? Ngày phán
xét đã sắp tới, nhân loại thiểu số lên Thiên đường, còn tuyệt đại đa số thì
xuống địa ngục (theo niềm tin Ca Tô), vì khi đó chỉ có một số ít người tin theo
Giê su, còn cả nửa thế giới mà Giê su không biết tới, thí dụ như Tân Thế Giới
(Mỹ châu) và phần lớn Á Đông (Cựu ước cho rằng trái đất phẳng, không biết đến
cả sự kiện là trái đất có hình cầu), chưa kể là trước khi có đạo Giê su, hằng
hà sa số con người đã sinh ra và chết đi mà không hề biết tới Chúa, trong đó có
cả tổ tiên Giê su, tất cả đều phải xuống địa ngục, vậy Thánh Phê rô xây dựng
giáo hội theo như lời "Giáo hội dạy rằng" để làm gì? Phải chăng để
cho các Giáo hoàng có chỗ để tự nhận là kế thừa Phê rô, nắm trong tay những
chìa khóa của Thiên đường, cái vũ khí đe dọa giáo dân đừng có hòng lên Thiên
đường nếu không tuyệt đối tuân phục Giáo hoàng?
Từ
ba điểm phân tích ở trên, chúng ta khó có thể chấp nhận thuyết Phê-rô được Chúa
ủy thác cho việc xây dựng giáo hội Ca Tô và các Giáo hoàng là những đại diện
của Chúa, kế thừa Phê rô, như Giáo hội đã dạy các tín đồ. Joseph L. Daleiden,
một học giả Ca Tô, cho rằng "câu chuyện ủy quyền cho Phê rô xây dựng giáo
hội là một chuyện tiếu lâm" (On the face of it, I would take it as a
joke.. Ibid., trg. 83) và Albert Camus cho rằng "Giê-su đã riễu cái tên
nghèo khổ, hèn nhát Phê rô khi bảo Phê rô là vững như phiến đá" (Camus
pointed out, Jesus must have been making fun of poor, cowardly Peter by
referring to him as a rock of steadfastness.). Daleiden kết luận (Ibid.
trg.83):
"Do đó,
chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả chuyên về
Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê rô, giống như nhiều chuyện khác trong Tân
Ước, đã được người ta thêm thắt vào về sau."
(It
is not surprising, therefore, to learn that many biblical scholars believe the
evidence indicates that this reference to Peter, like many other New Testament
passages, was inserted at a later date.)
Ai
thêm thắt những chuyện thậm kỳ vô nghĩa như trên vào Thánh Kinh về sau, và với
mục đích gì? Chẳng cần phải là người thông minh cho lắm cũng thấy rằng đó là
thủ đoạn của giới giáo sĩ lập ra hệ thống quyền lực Ca Tô, và mục đích không
ngoài sự tự ban cho mình những quyền lực thần thánh trước đám tín đồ kém hiểu
biết.
Ngoài
ra, chúng ta cũng nên để ý rằng, hội nghiên cứu Thánh Kinh (The Jesus Seminar)
gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki Tô, sau nhiều năm nghiên cứu Thánh Kinh,
cũng đưa ra cùng một kết luận như trên, nghĩa là, Giê-su không hề ủy quyền cho
Phê Rô thành lập Giáo hội.
Vậy,
nếu không phải là Thánh Phê rô xây dựng giáo hội, mà Chúa Giê-su thì chắc chắn
không nghĩ đến việc xây dựng giáo hội vì đã khẳng định là mình sẽ trở lại trần
thế trong một tương lai rất gần, ai là người xây dựng giáo hội Ki Tô? Ngày nay,
các học giả đều đồng ý rằng, Thánh Phao Lồ (Paul) mới chính là người đã sáng
chế ra Ki Tô Giáo. Chính Phao-Lồ đã lấy những giáo điều trong Do Thái Giáo,
trong phái Tự Ngộ, và những huyền thoại thờ cúng trong dân gian, xào xáo lại
với nhau để tạo thành một huyền thoại xoay quanh chuyện Giê-su bị đóng đinh
trên thập giá. (Christianity was the invention of St. Paul, who used elements of Judaism,
Gnosticism, and pagan mystery cults as his materials, fusing them around the
story of Jesus' crucifixion. (The
Mythmaker: Paul and the Invention of Christianity, front cover)).
Chính Phao Lồ đã sáng chế ra những tín lý Ca Tô như: tư cách thần thánh của
Giê-su, sự sống lại và thăng thiên của Giê-su, đức tin (mù quáng) sẽ đưa đến sự
cứu rỗi (salvation by (blind) faith) v...v... Điểm đặc biệt là, chính Phao-lồ
chưa bao giờ gặp Chúa mà chỉ nghe đồn về Chúa (hearsay), và chỉ nghe thấy tiếng
Chúa trong một ảo tưởng trên đường đi tới Damascus, cho nên tất cả những điều
viết về Chúa chỉ là những điều tưởng tượng, thường là hoang tưởng, của Phao Lồ,
nhưng lại thích hợp với đầu óc và hi vọng của những người ở miền Trung Đông
trong thời Paul rao giảng, vào khoảng 40 năm sau khi Giê-su bị đóng đinh trên
thập giá, chết, và táng xác. Nhưng qua thời gian, với sự tiến bộ trí thức của
nhân loại, với sự hiểu biết của con người ngày nay về khoa học, những điều Phao
Lồ rao giảng làm căn bản tín ngưỡng của Ca Tô Giáo như “Giê-su chịu hi sinh bị
đóng đinh trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Giê-su đã sống lại”, “vai
trò cứu rỗi và luận phạt của Giê-su” v..v.. đều đã trở thành hoang đường, không
còn có thể chấp nhận, ít ra là đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài
các giáo hội Ki Tô Giáo. Điều này thể hiện rõ trong chính những lời công nhận
thuyết Tiến Hóa của Giáo hoàng John Paul II cùng những lời thú nhận của Ngài về
sự kiện không làm gì có thiên đường hay địa ngục như giáo hội vẫn từng rao
giảng để khuyến dụ cũng như đe dọa đám tín đồ đầu óc thấp kém.
Thực
ra, tôi, cũng như đa số độc giả, không mấy quan tâm đến chuyện ai là người sáng
lập ra Ki Tô Giáo. Điều mà chúng ta quan tâm là Ki Tô Giáo đã phát triển ra sao
và đã mang lại những gì cho nhân loại. Nhưng, điều quan trọng mà chúng ta có
thể rút tỉa từ sự phân tích tài liệu ở trên là: luận cứ của Giáo hội Ca Tô về
Thánh Phê Rô là người được Chúa Giê-su ủy thác xây dựng Giáo hội, và Giáo Hoàng
là người kế thừa Phê Rô, giữ trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường
v..v.., rõ ràng là những thủ đoạn không chính đáng, ngụy tạo văn kiện, thêm
thắt vào Thánh Kinh v...v.., để tạo cho Giáo hoàng và Giáo hội những quyền lực
thần thánh để dễ ngự trị trên đầu óc của đám tín đồ nhẹ dạ, cả tin.
Sau
đây chúng ta sẽ đi vào lịch sử phát triển của Ca Tô Giáo Rô Ma.
Vài Cảnh Tra Tấn và Hành Hình những người Dị
Giáo
của Giáo Hội Công Giáo "Thánh Thiện Tông
Truyền"
CHƯƠNG III :
LỊCH SỬ 5 NÚI TỘI ÁC CỦA CA TÔ GIÁO RÔ MA
[CÔNG GIÁO LA MÃ] ĐỐI VỚI NHÂN
LOẠI
DẪN NHẬP :
1988:
Peter de Rosa, một linh mục dòng Tên (a Jesuit), giáo sư về Siêu Hình Học và
Đạo Đức tại trường Dòng Westminster, khoa trưởng khoa Thần học tại đại học
Corpus Christi ở Luân Đôn (Professor of Metaphysics and Ethics at Westminster
Seminary and Dean of Theology at Corpus Christi College in London) xuất bản
cuốn Những Đại Diện của Chúa Ki-Tô:
Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ:
The Dark Side of the Papacy) trong đó tác giả vạch trần cái mặt đen tối đã ngự
trị trong nhiều triều chính giáo hoàng như đồi bại, ngụy tạo tài liệu, loạn
dâm, giết người, theo đuổi chính sách diệt chủng v..v.. (corruption,
document-forgery, sex scandal, murder, genocide). Tác giả đã mở toang những
cánh cửa kính màu (thường là mẫu mực trong các nhà thờ ở Tây phương, nhất là
Thánh đường Phê-rô ở Vatican.
TCN) và để lộ ra những giáo điều của Giáo hội thường là "...hình thành bởi những ham muốn đồi bại, độc
tài và cuồng tín của những giáo hoàng” (de Rosa opens the stained glass window and
reveals that the Church's teachings were too often "..shaped by the whims
of corrupt, despotic and fanatical popes"). Cuốn sách đã được nhiều tín đồ
Ca-tô đánh giá cao vì tính chất lương thiện và nghiêm túc của nó (The book was
appreciated for its honesty and seriousness by many Catholics).
1994:
Trong một mật thư gửi cho các hồng y,
về sau bị lộ ra cho báo chí Ý, giáo hoàng John Paul II đặt câu hỏi: "Làm
sao mà chúng ta có thể tiếp tục yên lặng trước nhiều hình thức bạo tàn mà giáo
hội đã phạm phải nhân danh đức tin - chiến tranh tôn giáo, những Tòa Hình Án Xử
Dị Giáo và những hình thức vi phạm nhân quyền khác?" (Chicago Tribune, June 5, 1995: In a
1994 confidential letter to cardinals which was later leaked to the Italian
Press, Pope John Paul II asked: "How can one remain silent about the many
forms of violence perpetrated in the name of faith - wars of religion,
tribunals of the Inquisition and other forms of violations of the rights of
persons?")
1995:
Giáo hoàng John Paul II thúc giục Giáo
Hội Ca Tô Rô Ma hãy nắm lấy cơ hội "đặc biệt thuận lợi" của một thiên
niên kỷ mới để ghi nhận "cái mặt đen tối của lịch sử giáo hội
(Ca-tô)"
(Ibid.,: Pope John Paul II had urged the Roman Catholic Church to seize the
"particularly propitious" occasion of the new millennium to recognize
"the dark side of its history").
1995:
Helen Ellerbe cho ra đời cuốn "Cái
Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo" (The Dark Side of Christian History). Chúng
ta có thể đọc những lời tóm tắt sau đây nơi trang bìa sau: "Trong khoảng thời gian gần 2000 năm, giáo hội
Ki-Tô đã đàn áp và bạo hành nhiều triệu người trong toan tính kiểm soát và ngăn
chận vấn đề tâm linh của con người. Cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo phanh phui với chi tiết tỉ mỉ những thảm họa, đau khổ
và bất công mà giáo hội đã giáng lên nhân loại. Tác phẩm vạch trần sự thật này
là một đòi hỏi hấp dẫn và nồng nhiệt cho nhân phẩm và sự tự do trong vấn đề tâm
linh"
(Over a period of almost two millennia, the Christian Church has oppressed and
brutalized millions of individuals in an attempt to control and contain
spirituality. The Dark Side of
Christian History
reveals in painstaking detail the tragedies, sorrows and injustices inflicted
upon humanity by the Church. This exposé is a compelling and passionate cry for
human dignity and spiritual freedom).
1999:
Douglas Lockhart xuất bản tác phẩm Cái
Mặt Đen Tối Của Thượng Đế (The Dark Side of God) với lời giới thiệu như sau:
"Giáo hội
Ki-tô (Ca-tô) tự nhận là thừa hưởng trực tiếp từ Giê-su quyền năng tinh thần
như được viết trong Phúc Âm. Nhưng thực ra có phải là một sự chuyển giao quyền
lực một cách êm ả từ Giê-su cho Phê-rô và từ Phê-rô cho Giáo hội hay không? Hay
đó chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, ngụy tạo, và lừa dối lâu dài đã che đậy
bản chất thực sự của các biến cố. Cuốn sách mới, có tác dụng làm cho chúng ta
suy nghĩ, về nguồn gốc Ki Tô Giáo, đưa ra một họa đồ về sự theo đuổi quyền lực
không ngừng của Giáo hội , từ lúc đầu cho đến ngày nay. Trong sự phân tích hấp
dẫn và thường gây ngỡ ngàng về niềm tin trong Ki Tô Giáo, cuốn sách này khảo
sát từ đâu mà Giê-su, người xứ Nazareth, đã được thổi phồng lên quá mức hoàn
toàn xa với thực tế thường ngày."
(The
Christian Church claims to inherit its spiritual authority directly from Jesus
through the teaching of the gospels. But was there really a smooth transfer of
power from Jesus to Peter and thence to the Church? Or has a long-term campaign
of propaganda, forgery and deception concealed the true nature of events? This
thought-provoking new book on the origins of Christianity charts the Church's
relentless pursuit of power, from its beginnings to the present day. In a
compelling and often disturbing analysis of Christian belief, it examines how
Jesus the Nazarene was inflated into a figure of cosmic proportions far-removed
from everyday reality...)
Từ
nội dung những tác phẩm trên, không còn nghi ngờ gì nữa, các triều chính giáo
hoàng cũng như giáo hội Ca-tô quả thật có một lịch sử đen tối, và ngay cả
Thượng đế của họ cũng có cái mặt đen tối của mình.
Giáo
hoàng John Paul II đã chính thức thú nhận lịch sử giáo hội Ca-tô Rô-ma có một
mặt đen tối, và lịch sử đó đã chứa không ít bạo tàn đối với nhân loại dưới
nhiều hình thức. Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ca-Tô giáo Rô-ma không hề
biết đến cái mặt đen tối này, nhất là những tín đồ Việt Nam thì lại càng ít
biết hơn nữa. Bởi vậy, có những tín đồ Ca-Tô Việt Nam vẫn tiếp tục ca tụng trên báo
chí, đài phát thanh ở hải ngoại rằng "hội
thánh công giáo vẫn luôn luôn thánh thiện, công giáo và tông truyền".
Với
kinh nghiệm 2000 năm lừa dối thế giới, với khả năng tài chánh vô tận, với những
phương tiện truyền thông rồi rào, và với một đoàn cán bộ trung kiên (hồng y,
tổng giám mục, đức ông, giám mục và linh mục), những người chuyên vận dụng khả
năng trí thức của mình để lôi kéo quần chúng thấp kém vào vòng nô lệ tâm linh,
giáo hội Ca-Tô Rô-ma đã thành công cấy vào đầu tín đồ những niềm tin như
"giáo hội là một "hội thánh" thánh thiện, công giáo và tông
truyền", "giáo hội tiền phong trong việc tranh đấu cho nhân quyền,
dân chủ, tự do", "giáo hội là hiện thân của nền văn minh tốt đẹp Tây
phương", "giáo hội mang hòa bình và sự hiểu biết đến cho mọi dân
tộc". Tất cả những điều tự nhận như trên của giáo hội Ca-Tô Rô-ma đều chỉ
là những sản phẩm tuyên truyền lừa dối đám tín đồ thấp kém, vì lịch sử giáo hội
đã chứng tỏ chúng hoàn toàn trái ngược với sự thực.
Sự
thực là như thế nào? Giáo Hội tuyệt đối không phải là một "hội thánh"
vì không có một hội thánh nào lại có thể gây ra nhiều tội ác như “hội thánh
Ca-Tô”. Giáo hội cũng chẳng có gì có thể gọi là "công giáo" hay
"tông truyền" vì tất cả đều trái ngược với những điều viết trong
Thánh kinh. Giáo hội là một định chế tôn giáo độc tài sánh ngang với Hồi giáo,
Do Thái giáo, do đó tuyệt đối không có một ý niệm gì về dân chủ và tự do. Giáo
hội là một tổ chức không có một đóng góp nào đáng kể cho nền văn minh Tây
phương, trái lại trong suốt 2000 năm đã dùng mọi nỗ lực và thủ đoạn để ngăn
chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đưa Tây phương vào một thời đại man rợ và đen tối trí thức (the age of
barbarism and intellectual darkness) kéo dài hơn 1000 năm. Và sau cùng, Giáo
hội chưa hề mang hòa bình và sự hiểu biết đến bất cứ nơi nào trên thế giới. Bất
cứ giáo hội truyền đạo đến đâu là ở đó xảy ra chiến tranh, hận thù, và chia rẽ,
và các tín đồ bị lùa vào cảnh nô lệ tâm linh, ngu dân dễ trị. Tất cả những sự
thực này sẽ được chứng minh trong những chương tới.
Lời
thú nhận của giáo hoàng John Paul II ở trên là bằng chứng hùng hồn nhất để phủ
bác những điều tự nhận của giáo hội. Chỉ tội nghiệp cho đám con chiên thấp kém
ở dưới đã bị mê hoặc bởi bộ mặt giả dối của giáo hội và những hứa hẹn hoang
đường giáo hội đưa ra, đám người xấu số vì thiếu hiểu biết cho nên cam tâm tình
nguyện làm cái đáy của một kim-tự-tháp, để cho một số người vô hạnh ngồi trên
chóp đỉnh, ngự trị trên đầu trên cổ.
Đến
đây, chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa của từ "thấp kém" hay "ngu
đần" (ignorant) mà các học giả Tây phương thường dùng. Thấp kém và ngu đần
ở đây không hẳn chỉ có nghĩa là ít học hay vô học, mà còn có nghĩa không dứt bỏ
được những tín lý đã không còn giá trị, không biết đến những diễn biến ngay
chính trong nội bộ giáo hội, và không theo kịp sự tiến bộ trí thức của nhân
loại về vấn đề tôn giáo, bất kể là bằng cấp ngoài đời cao như thế nào, thuộc
ngành nào. Phật giáo cũng có một từ tương đương, "Ngu si vô tri'",
không chỉ có nghĩa là ít học hay vô học, mà còn là không nhìn được vạn pháp như
chúng là như vậy (to see things as they really are) cho nên nhận giả làm chân.
Vì
không biết đến sự thực lịch sử của giáo hội, không biết đến thực chất đạo đức
của giới chăn dắt con chiên, từ giáo hoàng trở xuống tới các linh mục, và vì đã
bị cấy vào đầu óc từ nhỏ những điều "giáo hội dạy rằng", và nhất là
đã được nhào nặn và đóng khuôn trong giáo điều phải "quên mình trong vâng
phục" cho nên những tín đồ Ca-Tô Việt Nam luôn luôn có quan niệm rằng mọi
điều trái ngược với những lời "giáo hội dạy rằng" đều thuộc loại
"chống Ca-Tô", bắt nguồn từ sự "thù ghét Ca-Tô" v..v.. mà
không bao giờ nghĩ ra rằng, chính cái lịch sử ô nhục của Ca-Tô giáo Rô-ma đã
"chống Ca-tô" hơn ai hết. Họ cũng không tự đặt cho mình một câu hỏi:
"Nếu giáo hội Ca-Tô thực sự thánh thiện, tông truyền" thì tại sao
người ta lại phải thù ghét hay chống giáo hội. Ở trên cõi đời này, có ai lại đi
chống những cái gì thánh thiện, tốt lành bao giờ. Người ta chỉ chống những cái
xấu cái ác không phù hợp với những tiêu chuẩn luân lý đạo đức xã hội, thí dụ
như những tổ chức như Mafia hay những tổ chức băng đảng tôn giáo đồng loại. Họ
cũng không hề biết rằng, tuyệt đại đa số những tác phẩm mà họ cho là thuộc loại
"chống Ca-Tô" lại do chính những tác giả ở trong giáo hội gồm từ các
hồng y trở xuống, và do những tín đồ Ki-Tô Giáo ở trong môi trường đại học Âu
Mỹ như giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo v..v.. viết, những bậc trí thức
lương thiện, không thể bán rẻ lương tâm để rao truyền những điều mê tín, phi lý
trí, phản khoa học, ngược thời đại v..v.. Họ đưa ra những sự thực lịch sử của
giáo hội không có nghĩa là họ chống tôn giáo của họ, mà chỉ có mục đích khai
sáng tâm trí người dân để cho họ biết rõ đâu là sự thực, nhất là khi những sự
thực này đã được chính giáo hoàng và giáo hội thú nhận. Cho nên, thật ra các
tín đồ Ca-Tô cần phải cám ơn những người đã giúp họ tìm hiểu sự thực, kéo họ ra
khỏi vòng u mê tăm tối, vòng nô lệ tâm linh, và những giáo điều đã hạ thấp họ
xuống hàng súc vật (con chiên), bảo đâu nghe đó, của một số người tự ban cho
mình những thần quyền hoang đường để hưởng những quyền lợi thế tục trên đám tín
đồ thấp kém.
Chương
này được viết ra không ngoài mục đích trình bày cùng độc giả cái bộ mặt đen tối
của lịch sử giáo hội Ca-tô, một bộ mặt mà các giới chức cao cấp nhất trong
Ca-tô giáo Rô-ma như giáo hoàng, hồng y.. đều đã biết rõ, và đã thú nhận, nhưng
tuyệt đại đa số tín đồ thấp kém ở dưới vẫn không hề biết đến, vì giáo hội luôn
luôn dùng đủ mọi cách để bưng bít, dấu kín những sự thực lịch sử của giáo hội,
đồng thời dùng bộ máy tuyên truyền đưa ra cái bộ mặt "thánh thiện"
không hề có của giáo hội. Sự hiểu biết đầy đủ về mọi khía cạnh lịch sử của giáo
hội là một điều cần thiết trong thời đại này. Tuy nhiên, tôi cần phải nói trước
rằng, không ai có thể viết ra đầy đủ chi tiết cái lịch sử đen tối của Ki-tô
giáo trải dài suốt 2000 năm nay trong một cuốn sách. Cho nên, cuốn sách này chỉ
thâu tóm những nét chính của bộ mặt đen tối của lịch sử Ki-tô giáo, đặc biệt là
lịch sử Ca-tô giáo Rô-ma, hệ phái Ki-tô giáo ở vị thế độc tôn từ thế kỷ 4 đến
thế kỷ 16, thời điểm có cuộc cải cách của hệ phái Ki Tô phản đối định chế Ca-tô
giáo (Protestant reformation).
Ki
Tô Giáo luôn luôn thổi phồng lên quá mức và quảng cáo cho cái bộ mặt
"thánh thiện" của mình, thường là không đúng sự thật. Tôi nghĩ, trong
thời đại này, mọi Ki-tô hữu (Christians) cũng như mọi người ngoại đạo cần phải
biết thêm đến cái mặt chính, cái mặt đen tối của lịch sử Ki-Tô giáo, để có thể
quyết định cho chính mình một con đường tâm linh sáng suốt và hữu ích cho bản
thân và cho nhân loại.
Như
đã viết ở trên, Học giả Ca Tô Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá
đạo Ca Tô Rô Ma qua nhận định như sau trong cuốn The Final Superstition:
"Nói tóm
lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo trong thế giới
xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch
sử, từ những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở ban đầu của Giáo
hội, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những
nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có
tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này."
(In
summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in
both the Old World and the New was due in
large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history,
from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition,
and repression of other cultures throughout the world, Christianity has
demonstrated its destructive antihuman values.)
Nhận
định trên đúng hay sai? Phải chăng đó chỉ là những lời vô căn cứ của một người
"chống đạo Ca Tô", một "kẻ thù của giáo hội" v...v... như
giáo hội thường lên án những người viết ra những sự thật về Ca Tô Giáo RôMa? Hi
vọng những chi tiết sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Đại
cương thì, đọc lịch sử GiaTô LaMã Giáo, chúng ta thấy rằng trong suốt gần 2000
năm nay, tôn giáo này chưa bao giờ hòa hợp với bất cứ một tôn giáo nào khác, kể
cả những tôn giáo cùng thờ một Chúa KiTô. Khi ở vị thế có thể nắm quyền thế gian
thì tôn giáo này đã làm đủ mọi cách, dùng mọi quyền lực và thủ đoạn, thường là
bất nhân tàn ác, để bành trướng bằng sắt máu, tiêu diệt các tôn giáo khác. Đi
tới địa phương nào, tôn giáo này cũng tự cho mình là chân thật duy nhất, cao
quý nhất, trong khi thực chất chỉ là một tôn giáo đầy mê tín dị đoan, thấp kém
về vấn đề đạo đức, luôn luôn áp dụng sách lược phỉ báng các tôn giáo và truyền
thống dân tộc địa phương cũng như tìm cách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương
để thay vào đó bằng một nền văn hóa hẹp hòi, tàn độc của CaTô giáo Tây phương.
Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, giáo sĩ Alexandre de Rhodes, khi tới Việt Nam
truyền đạo, đã xuyên tạc, mạ lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo,
Khổng Giáo, và Lão Giáo, gọi đức Phật, Khổng Tử bằng những danh từ thiếu văn
hóa. (Xin đọc "Phép Giảng 8 Ngày..." của Alexandre de Rhodes). Lịch
sử Ca Tô Giáo Rô Ma cho chúng ta thấy giáo hội Ca Tô Rô Ma đã phạm nhiều tội ác
trong quá trình bành trướng và truyền bá đạo. Những tội ác này, theo sự phân tích
của đa số học giả ngày nay, là những vết nhơ không thể gột sạch được trong lịch
sử Ca Tô Giáo Rô Ma, dù gần đây Giáo hội đã cố gắng đánh lạc hướng dư luận thế
giới bằng những chiêu bài hữu danh vô thực như tranh đấu cho tự do, bình đẳng,
nhân quyền, và xưng thú 7 núi tội lỗi cùng nhân loại v..v.. để thế giới quên đi
không nghĩ tới cái lịch sử đen tối của Ca Tô Giáo. Sau đây tôi sẽ lược duyệt
năm tội ác chính của Ca Tô Giáo đối với nhân loại.
3.1. NÚI TỘI ÁC THỨ NHẤT CỦA CÔNG
GIÁO:
NGĂN CHẬN SỰ TIẾN BỘ TRÍ THỨC
CỦA NHÂN LOẠI.
“Giáo hội Công
giáo đã có những tác động tàn phá trên xã hội. Khi Giáo hội nắm được vai trò
lãnh đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ thuật, khoa học, giáo dục,
lịch sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp đổ. Âu Châu đi vào những Thời Đại Hắc
Ám. Tuy Giáo hội vơ vét được một tài sản to lớn trong những thế kỷ đó, hầu hết
những gì định nghĩa cho văn minh đã biến mất.”
(Helen
Ellerbe, The Dark Side of Christian
History,
p. 50: The [Catholic] Church had devastating impact upon society. As the Church
assumed leadership, activity in the fields of medicine, technology, science,
education, history, art and commerce all but collapsed. Europe
entered the Dark Ages. Although the Church amassed immense wealth during these
centuries, most of what defines civilization disappeared.)
Nhận
định của Helen Ellerbe không sai nếu chúng ta biết đến chủ trương của Giáo hội
Công Giáo qua những hành động ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại như:
-
Giữ độc quyền giáo dục với chính sách làm cho nhân dân ngu muội, tối tăm.
-
Đốt sách vở ghi chép những kiến thức cổ xưa của nhân loại.
-
Ngụy tạo và viết lại lịch sử với mục đích chứng thực đức tin của Công Giáo.
-
Hủy diệt các nền văn hóa phi Ki-Tô.
Trước
khi đi vào chi tiết những điểm trên, tưởng chúng ta cũng nên biết chút ít về
xuất xứ của Công Giáo. Khởi đầu, Công Giáo chỉ là một hệ phái trong nhiều hệ
phái theo nhân vật Do Thái mà họ gọi là Giê-su Ki Tô. Trong mấy thế kỷ đầu,
Công Giáo càng ngày càng có nhiều tín đồ, không phải vì những giáo lý dạy về
luân lý đạo đức, mà vì sự khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn trong một đời sau
của tuyệt đại đa số người dân cơ cực thời bấy giờ. Vào thời điểm hạ bán thế kỷ
I, hầu hết dân chúng sống trong vùng thống trị của đế quốc La Mã là những người
nghèo khổ, nô lệ, ít học hay vô học. Họ sống trong tuyệt vọng, không còn có thể
trông ngóng được gì trong cuộc sống trên cõi đời của họ. Có nhiều tôn giáo phát
triển trong quần chúng nhưng họ chỉ muốn một tôn giáo mang đến cho họ sự an ủi
và hi vọng. Công Giáo khai thác sự khao khát này và hứa hẹn cùng họ một cuộc
sống tốt đẹp hơn trên Thiên Đường sau khi chết, nếu họ tin vào Chúa Giê su,
theo giáo thuyết của Thánh Phao Lồ. Đây là một niềm hi vọng và an ủi lớn đối
với họ cũng như của đa số tín đồ Công Giáo ngày nay đang sống ở Phi Châu, Nam
Mỹ, Phi Luật Tân và một vài vùng ở Việt Nam v...v..., nhất là trong những ốc
đảo nghèo khổ (Hobley, p. 17: Most people in the empire were poor, enslaved and
unhappy. Many religions had spread among them but the people wanted one which
gave them comfort and hope. Christianity provided this for it promised its
believers a happy life in heaven after death. So Christianity grew.)
Các
hệ phái khác cùng theo Chúa Giê su , nhưng thường không có đồng quan điểm với
những tín điều, những sự kiện lịch sử, vai trò và khả năng của Chúa Giê su,
thần quyền của Giáo Hoàng và hàng Giáo phẩm Công Giáo v..v... mà Giáo hội Công
Giáo La Mã đưa ra. Điển hình là phái Tự Ngộ Ki Tô (Gnostic Christianity) theo
chủ thuyết tự chứng, đạt giải thoát qua kiến thức và sự hiểu biết sâu xa về
thực tại, cùng kinh nghiệm tu chứng bản thân. Tên phái này lấy từ gốc Hi Lạp,
Gnosis, có nghĩa là kiến thức (knowledge) thâu thập được do nội quán. Từ thập
niên 1980 tới nay đã có nhiều công cuộc khảo cứu về hệ phái Tự Ngộ Ki Tô.
Hệ
phái Tự Ngộ đã chê trách "những người (trong Công Giáo ) tự xưng là Giám
Mục và Trợ Tế, làm như họ đã được Thượng đế ban quyền cho..." và gọi những
người tự xưng một cách trơ tráo này là "những
con kênh không có nước." (The Christian sect known as the Gnostics
chided those who "call themselves bishops and also deacons, as if they had
received their authority from God..." and called those who made such
audacious claims "waterless canals." , (Joseph L. Daleiden, Ibid.,
trg. 52)).
Nhưng
hiển nhiên là chủ thuyết Tự Ngộ theo con đường vận dụng sự hiểu biết không
thích ứng đối với lớp dân chúng thấp kém, ít học, hay vô học, cho nên hệ phái
này không phát triển được sâu rộng trong quần chúng. Hệ phái Tự Ngộ này bị giáo
hội tự phong là chính thống Ki Tô (nghĩa là Công Giáo La mã cho tới thế kỷ 16),
kết án là lạc đạo hay dị giáo (heretic), vì không chịu mù lòa tin bướng tin càn
như những người Công Giáo. Và khi giáo hội Công Giáo liên kết với, hoặc nắm
được, quyền lực thế gian, thì tìm cách tiêu diệt hệ phái này và tất cả những
tín ngưỡng không thuận theo chủ trương làm cho dân chúng ngu đần, tối tăm của
Công Giáo.
Chủ
thuyết của hệ phái Tự Ngộ Ki Tô đối nghịch với những giáo lý ngụy tạo của Công
Giáo và phủ nhận quyền lực của giới giáo sĩ cho nên thật là dễ hiểu khi ta thấy
Công Giáo La Mã Giáo đã phải tìm đủ mọi cách để tiêu diệt hệ phái Ki Tô này. Có
3 lý do chính để Giáo hội Công Giáo thù ghét hệ phái Tự Ngộ.
Thứ
nhất, hệ phái Tự Ngộ chủ trương sự tự chứng là cứu cánh chung cùng của con
người. Biết rõ bản thân có nghĩa là biết rõ Thượng đế vì "cái ngã và
Thượng đế là một" . Vì con đường đi tới tự chứng căn bản là qua phương
pháp nội quán cho nên hệ phái Tự Ngộ không chấp nhận một niềm tin mù quáng,
điều kiện cần để được giải thoát, theo thuyết rao giảng bởi Thánh Phao Lồ. Hệ
phái Tự Ngộ cho rằng "tin vào các
bí tích là lối suy nghĩ ngây thơ và ma thuật" (Faith in the
sacraments shows naive and magical thinking) và cũng cho rằng "ý tưởng về Chúa trở lại cõi trần là vô
nghĩa"
(They thought the idea of the Second Coming of Christ was nonsense..). Những
niềm tin này của phái Tự Ngộ là một sự đe dọa đối với hàng Giáo phẩm Công giáo
vì chúng trái ngược với những giáo lý mà hàng Giáo Phẩm Công giáo đưa ra, và
hoàn toàn phủ bác vai trò độc nhất nắm trong tay chân lý, và giữ độc quyền ban
phát ân sủng cho tín đồ, của hàng Giáo phẩm Công giáo.
Thứ
nhì, theo Phúc Âm của Philip (The Gospel of Philip) thì Chúa Giê-su chỉ là một
người như mọi người thường. Trong Phúc Âm này có đoạn mô tả tính người của Chúa
như sau:
"Người
luôn luôn đi bên Chúa là Mary Magdalene. Chúa yêu thương nàng hơn tất cả các đệ
tử khác và thường hôn môi nàng. Các đệ tử khác lấy làm phật ý về việc
này..."
(The
companion of the Savior is Mary Magdalene. But Christ loved her more than all
the disciples and used to kiss her often on her mouth. The rest of the
disciples were offended...)
Một
khi đã phủ nhận tư cách thần thánh của Giê su, hệ phái Tự Ngộ phủ nhận luôn cả
chuyện Đức Mẹ Đồng Trinh và chuyện Chúa sống lại và bay lên trời, nghĩa là
những tín lý căn bản của Công Giáo.
Thứ
ba, hệ phái Tự Ngộ chủ trương con người thì bình đẳng và thường mời giới phụ nữ
giảng đạo với tư cách của một linh mục. Trái lại, trong Công Giáo, theo những
bức thư tông đồ của Thánh Phao Lồ thì phụ nữ bị liệt xuống hạng thấp kém so với
nam giới, và Giáo hội Công Giáo vẫn duy trì sự kỳ thị này cho tới ngày nay.
Giáo Hoàng John Paul II ra sắc lệnh khẳng định việc cấm tấn phong phụ nữ làm
linh mục, và Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, vẫn duy trì sắc lệnh này.
Trong kinh Trí Tuệ của Đức Tin (Faith Wisdom) của phái Tự Ngộ có ghi Mary
Magdalene, người yêu của Chúa Giê-su, phàn nàn như sau: "Phê-rô làm tôi ngần ngại, tôi sợ hắn, vì hắn
ghét phái nữ"
(The author of the Gnostic text Faith Wisdom has Mary Magdalene complain,
"Peter makes me hesitate, I am afraid of him, because he hates the female
race.")
Nói
tóm lại, vì phủ nhận những chuyện hoang đường trong Thánh Kinh như Đức Mẹ Đồng
Trinh, vai trò thần thánh của Giê su, vai trò cứu rỗi của Giê su, chuyện Giê su
sống lại và bay lên trời, và nhất là phủ nhận quyền lực thần thánh tự phong của
hàng Giáo phẩm Công Giáo, bác bỏ một đức tin mù quáng, và chủ trương con người
bình đẳng, mà hệ phái Tự Ngộ bị Giáo hội Công Giáo tiêu diệt.
Đúng
như Helen Ellerbe đã nhận định ở trên, khi đại đế Constantine trong thế kỷ 4 theo Ki Tô Giáo và
lập Ki Tô Giáo làm quốc giáo thì tôn giáo này nắm được địa vị và quyền hành
tuyệt đối trên thế gian. Và từ đó Công Giáo đã phát triển, và với một định chế
độc tài về tư tưởng và tín ngưỡng, giáo hội Công Giáo đã đưa Âu Châu vào trong
những thời đại “hắc ám” (The Dark Ages), kéo dài suốt 1000 năm, từ thế kỷ 5 đến
thế kỷ 15. Thời gian mười thế kỷ này đã được các học giả, kể cả một số học giả
Công Giáo, công nhận là "thời đại Hắc Ám" (Dark Ages), đó chính là "thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức" (The ages of
barbarism and intellectual darkness; (Grolier Electronic Publishing 1997)). Sở
dĩ thời đại này có tên như vậy vì dựa vào quyền lực thế gian, giáo hội Công
giáo đã giữ độc quyền giáo dục quần chúng, áp đặt sự ngu xuẩn, đen tối trí thức
và bạo hành của giáo hội trên quần chúng ở Âu Châu, như chúng ta sẽ thấy trong
phần sau đây.
I. Về Văn Hóa:
Chủ
trương tiêu diệt tất cả những tín ngưỡng khác của Công Giáo giáo bắt đầu bằng
một chính sách man rợ và phản tiến hóa nhất của nhân loại: cấm mọi thảo luận triết
lý trong dân gian; đốt tất cả mọi sách vở, sử liệu, chứng tích lịch sử liên hệ
đến các tín ngưỡng khác và liên hệ đến những sự thật về KiTô giáo và nhân vật
Giê-Su; và thay thế vào đó cái ý hệ độc tôn "man rợ và đen tối trí
thức" của Công Giáo Giáo bằng những tư liệu ngụy tạo, những giáo điều dựa
trên quyền lực v...v...
Về
sự kiện này, trong cuốn "Những
dối trá và huyền thoại của Thánh Kinh" ("Deceptions and Myths of the
Bible", trg. 444) LLoyd M. Graham đã viết như sau:
"Sự hủy
diệt mọi chứng tích về phái Tự Ngộ và những nguồn tài liệu về đa thần là
"việc làm đầu tiên" của KiTô giáo. Chính các nhà truyền giáo đã khởi
sự, ở Antioch, như được nói đến trong sách "Công Vụ các Sứ đồ"
(Acts).. Do lệnh của giáo hội Công Giáo La Mã, tất cả kinh sách của những người
ủng hộ phái Tự Ngộ đều bị đốt, cũng như 36 cuốn của Porphyry (Porphyry là một
triết gia (232-305) chủ trương triết lý là phương tiện giải thoát và nhấn mạnh
đến lối tu khổ hạnh để tinh khiết hóa con người; TCN). Giáo hoàng Gregory VII đốt thư viện Apollo chứa đầy
kiến thức cổ xưa. Hoàng đế Theodosius đốt sạch 270000 tài liệu về học phái
huyền bí vì những tài liệu này chứa những căn bản giáo lý của ngũ Kinh.
Sự hủy diệt văn
hóa này vẫn tiếp tục sau khi những nhà lập giáo đã qua đời; những tín đồ cuồng
tín mà họ đào tạo ra tiếp tục công việc này: đoàn Thập tự quân đốt tất cả sách
vở mà họ có thể kiếm ra được, kể cả những cuộn nguyên bản Thánh thư Do Thái.
Năm 1233 những tác phẩm của Maimonides (một triết gia Do Thái xuất sắc, 1135-1204;
TCN) bị đốt đi cùng với 12000 cuốn của
Kinh Talmud (Thánh
kinh của Do Thái Giáo. TCN). Năm 1244,
18000 cuốn sách đủ mọi loại bị hủy. Theo Draper, Hồng Y Ximenes đã đốt 80000
bản văn của Ả Rập ở công trường Granada.
Ở Tân Thế Giới, toàn bộ kiến thức cổ xưa bị những người KiTô Tây Ba Nha phá hủy
cùng với đền đài chứa đựng những kiến thức này.
Sau khi đã phá
hủy mọi chứng tích, những nhà lập giáo KiTô đầu tiên đã có thể thay thế những
kiến thức cổ xưa này bằng những điều vô nghĩa của họ. Và để chứng minh những
điều vô nghĩa này, họ đã thay đổi lời lẽ và gài vào đó những câu không có trong
những nguyên bản... Về cùng một chủ đề này, Massey viết như sau: "Trong
bốn thế kỷ đầu, họ đã hủy bỏ những tài liệu quan trọng nhất về mọi sự hiểu biết
trung thực về nguồn gốc thực của sự mê tín trong KiTô giáo. Những huyền thoại
được viết và in ra như là lịch sử nhân loại, mọi tư tưởng khác đều bị dẹp bỏ
hay cưỡng bách phải chấp nhận sự gian dối"...
Theo giáo lý
của họ thì "máu của Chúa KiTô đã rửa sạch tội lỗi của thế giới,"
nhưng tội lỗi vẫn còn với chúng ta ngày nay. Cái mà thực sự bị rửa sạch chính
là sự lành mạnh của thế giới. Với thời gian, giáo lý của họ đã làm tâm thức Tây
phương mê mẩn đến nỗi Agibard ở Lyons phải viết như sau: "Cái thế giới bất
hạnh này nằm dưới sự chuyên chế điên rồ, những điều mà người KiTô tin, thực ra
là những điều vô nghĩa đến độ từ xưa tới nay không ai có thể làm cho người
ngoại đạo tin được". Nếu độc giả không tin và muốn có một thí dụ thì chúng
tôi xin cống hiến một chuyện trong KiTô giáo về Thánh John trong phúc âm. Theo
lịch sử các Thánh thì John, khi đã rất già, làm cho hoàng đế Domitian giận. Để
trừng phạt John, Domitian sai người ném John vào một cái vạc chứa dầu và nhựa
thông. Và khi người ta châm lửa, dầu bắt đầu sôi thì đám đông ở ngoài nghe một
tiếng hát trong ngọn lửa. Khi vạc dầu sôi cạn hết thì John vẫn còn sống và
không hề hấn gì. Jerome, Eusebius, Tertullan, tất cả đều kể lại cái phép lạ này
và những điều hoang đường trong đó. Và nay, nếu những tín đồ KiTô xuất sắc có
thể tin được sự vô lý này thì họ có thể tin bất cứ cái gì, ngay cả Thánh
Kinh." 1
Trong
cuốn “Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki
Tô Giáo”
(The Dark Side of Christian History), Helen Ellerbe cũng viết, trang 46, 48:
Khi Giáo hội [Công Giáo] nắm thêm quyền lực, người Ki-Tô [Công Giáo] đã đóng cửa các trung tâm giáo dục và đốt sách vở
cũng như toàn thể các thư viện. Giáo hội đốt một số rất lớn những tài liệu văn
học. Năm 391, người Công Giáo thiêu rụi một trong những thư viện lớn nhất hoàn
cầu ở Alexandria.
được biết là chứa 700000 tác phẩm. Tất cả những sách của hệ phái Tự Ngộ, 36
cuốn của Porphyry, những tác phẩm của 27 học phái huyền bí, và 270000 tài liệu
cổ xưa thu thập bởi Ptolemy Philadelphus đều bị đốt sạch. Giáo dục cho người ở
ngoài Giáo hội bị cấm. Những trung tâm giáo dục cổ xưa đều bị đóng cửa.
Giáo hội chống
học văn phạm và tiếng La-Tinh. Giáo hoàng Gregory I chống học văn phạm, ông ta
còn lên án giáo dục nào không phải là giáo dục cho giới giáo sĩ là điên rồ và
xấu xa. Ông ta cấm tín đồ không được đọc Kinh Thánh, ra lệnh đốt thư viện
Palatine Apollo để những văn học thế tục không làm lãng trí tín đồ trong việc
chiêm ngưỡng thiên đường.
Sau nhiều năm
các tín đồ Công giáo đi phá hủy sách vở và thư viện, Thánh John Chrysostom,
Giáo Phụ nổi tiếng của Giáo hội, hãnh diện tuyên bố, “Mọi dấu vết về văn học và
triết lý cổ của thời trước đã biến mất khỏi mặt trái đất.” 2
Sau
đây là một tài liệu khác về một số những hành động của giáo hội Công Giáo khi
giáo hội nắm được quyền lực thế gian (Joseph D. Daleiden, The Final
Superstition, trg. 60):
"Không có
một trích dẫn thống kê đơn thuần nào có thể nói lên vô lượng những sự ác ôn mà
giáo hội Công Giáo LaMã đã làm nhân danh Thượng đế. Từ khi mà các triều đại
giáo hoàng cấu kết quyền lực với chính quyền trong thế kỷ 5 cho tới công cuộc
Phục Hưng, cái áo vô minh và mê tín đã phủ lên Âu Châu. Ánh sáng tự do đã tắt
ngấm, Dân La Mã cổ xưa (không phải là dân La Mã dưới quyền thống trị của Giáo
hội Công Giáo. TCN) đã có những thư
viện chứa 500000 cuốn sách, thời kỳ từ năm 500 tới năm 1000 ở Âu Châu dưới quyền
lực KiTô không có một thư viện nào có được hơn 600 cuốn sách. Sự tiến bộ khoa
học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn ngưng trệ. Văn hóa con người thoái hóa đến
mức tàn bạo.
Thật là mỉa
mai, chính những cuộc Thánh chiến chống dân Hồi giáo đã rọi một tia sáng trí
thức qua cái mờ tối của vô minh và mê tín. Không như những dân KiTô tìm cách
tiêu diệt mọi kiến thức không hợp với thần thuyết của họ, những người theo Hồi
giáo đã gìn giữ trí tuệ của dân Hi Lạp cổ xưa. Hơn nữa, họ đã có nhiều tiến bộ
đáng kể về toán học, triết học, và khoa học. Khi những thập tự quân của Giáo
hội Công Giáo La Mã trở về từ miền Đông họ đã mang về cùng với những chiến lợi
phẩm những hạt giống kiến thức mà sau này đưa đến công cuộc Phục Hưng. Song
song với hàng đống những đồ cướp đoạt được và những thánh tích giả mạo, những
thập tự quân cũng mang về theo nghệ thuật và văn học của cổ Hi Lạp. Những tác
phẩm của các triết gia Hi Lạp mà giáo hội Công Giáo La Mã đã dẹp đi từ nhiều
thế kỷ trước, nay lại xuất hiện. Một vài triết gia như Plato và Aristotle được
đưa vào trong giáo thuyết của giáo hội. Thật vậy, những tác phẩm của Thomas
Aquinas, đặc biệt là những chứng minh về sự hiện hữu của Thượng đế, căn bản là
của Aristotle được sửa lại thành mới. Nhưng quan trọng hơn là, về sau này, triết
lý nhân bản của Hi Lạp đã nảy nở trong đầu óc của những người đau lòng mà nhận
ra sự vô ích của những suy đoán thần học cùng sự xấu ác của những tín điều mà
giáo hoàng đưa ra. Kết quả là, chính cái nền tảng trí thức và độc tài về đạo
đức của Giáo hội bắt đầu lung lay." 3
Và
Robert G. Ingersoll đã nhận định như sau (Ingersoll: The Magnificent, Lewis, trg. 125):
"Khi Ki Tô
Giáo có được quyền lực thì tôn giáo này phá hủy mọi tượng thần mà nó có thể đặt
những bàn tay vô minh của nó lên trên. Nó hủy hoại và xóa bỏ mọi họa phẩm, phá
hủy mọi công sự đẹp đẽ, đốt sạch những tác phẩm Hi Lạp và La Tinh, triệt tiêu
mọi lịch sử, thơ phú, triết lý và thiêu rụi mọi thư viện mà nó có thể đốt được.
Kết quả là, màn đêm Trung Cổ đã phủ lên nhân loại. Nhưng vì tình cờ, vì may mắn
, vì bỏ sót,
một vài tác phẩm đã thoát được sự ác liệt của cuồng nhiệt tôn giáo, và những
tác phẩm này trở thành cái nhân mà quả của nó là nền văn minh của chúng ta ngày
nay." 4
Những
tài liệu ở trên chứng tỏ Giáo hội Công Giáo, ngay từ đầu, đã theo đuổi chính
sách làm cho người dân ngu muội, tối tăm, để dễ bề kiểm soát đầu óc của đám tín
đồ thấp kém. Và chính sách này được kéo dài cho đến ngày nay. Giáo hoàng đương
nhiệm, Benedict XVI, nguyên là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, đứng đầu Bộ Tín Lý
và Đức Tin của Công Giáo, đã cấm đoán hoặc cất chức những nhà thần học nổi
tiếng trên thế giới như Teilhart de Chardin, Edward Schillebeeckx, Hans Kung,
Charles E. Curran, Raymond Hunthausen, Uta Ranke-Heinemann v..v..., và nhất là
những nhà thần học trong phong trào Thần Học Giải Phóng, chủ trương phục vụ con
người thay vì phục vụ Thiên Chúa [thực ra là phục vụ Giáo hoàng], điển hình như
Leonardo Boff, Gustavo Gutíerez, Juan Luis Segundo v..v.. , cấm họ không được
viết sách hay dạy học trong những trường học Công Giáo, vì những người trên đã
có những ý kiến không phù hợp với những điều ngu dốt cũa “giáo hội dạy rằng…”,
và riêng trong cộng động giáo dân Việt Nam thì các Cha đều cấm đoán tín đồ đọc
những sách vở viết lên những sự thật lịch sử về giáo hội Công Giáo, đặc biệt là
những sách do Giao Điểm xuất bản, bằng những lời đe dọa thuộc thời bán khai đã
mất thời gian tính như dọa Chúa sẽ đọa đầy xuống hỏa ngục hay bị Giáo hội tuyệt
thông, không cho hiệp thông với Chúa để hưởng một cái bánh vẽ trên trời sau khi
chết. Ratzinger cấm thì cứ cấm, những nhà thần học nổi danh như Hans Kung, Uta
Ranke-Heinemann, Leonardo Boff v..v.. thản nhiên không coi sự cấm đoán của
Ratzinger vào đâu, vẫn tiếp tục dạy học và viết sách, vì trong thời đại này,
giáo hội không còn khả năng để đưa họ lên dàn hỏa nữa.
Đó
là những gì Công Giáo đã làm với mục đích tiêu diệt văn hóa của các tôn giáo,
tín ngưỡng nào không phù hợp với những giáo điều và niềm tin của Công Giáo.
Nhưng, cũng như Tần Thủy Hoàng ở bên Trung Quốc, không thể nào đốt hết được
sách vở của thiên hạ, Giáo hội Công Giáo, dù đã dùng mọi nỗ lực để hủy diệt
những chứng tích lịch sử của các hệ phái Kitô khác cũng không có cách nào thành
công hoàn toàn. Do đó, vẫn có những tài liệu còn sót lại, và ngày nay người ta
đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ xưa về sự thực của KiTô giáo và con người thực
của Giê-Su. Những tài liệu mới tìm thấy của phái Tự Ngộ về Giê-su cho ta một
cái nhìn khác hẳn về con người của Giê-su, một người thường như mọi người khác,
không có những đức tính thần thánh hay khả năng làm phép lạ như những nhà lập
giáo Công Giáo đã quảng bá.
Năm
1945, một người dân thường ở Ai Cập đã tình cờ đào thấy ở Nag Hammadi, miền
thượng Ai Cập, một cái chĩnh trong có chứa 52 bản kinh văn của hệ phái Tự Ngộ.
Nội dung các bản kinh văn này làm các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo nói chung hoảng
hốt và tìm cách ngăn chặn sự phổ biến những tài liệu này. Cho tới hơn 30 năm
sau các học giả mới có cơ hội tìm hiểu các bản kinh văn này. Sở dĩ như vậy là
vì, theo Elaine Pagels, giáo sư sử tại đại học Columbia, Hoa Kỳ, tác giả tác
phẩm nghiên cứu nổi tiếng Phúc Âm của phái Tự Ngộ (The Gnostic Gospels,) những
bản kinh văn này chứa nhiều thông tin về Ki Tô Giáo và con người của Giê su đối
ngược với những thuyết lý thần học của Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng:
Những bản kinh
văn này của hệ phái Tự Ngộ mô tả nhiều nhân vật và biến cố trong Tân Ước, nhưng
trên một quan điểm khác hẳn. Chúng chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng, giáo hội Ki
Tô, ngay từ đầu đã bị phân hóa sâu rộng chứ không thống nhất như chúng ta thường
tin; rằng nhiều tín đồ của Chúa Ki Tô không đồng thuận về những sự kiện trong
đời sống của Giê su, về ý nghĩa những lời giảng dạy của Giê su, hoặc về hình
thức của giáo hội. Trong những bản kinh văn như Phúc Âm của Philip và Phúc Âm
của Thomas, Thomas được mô tả là em song sinh của Giê su, chúng ta biết rằng
một số tín đồ của hệ phái Tự Ngộ phủ nhận chuyện Giê su sống lại và bổ nhiệm
Phê-rô làm người kế vị; và nhiều tín đồ chất vấn về quyền hành của các linh
mục, tin rằng tư cách thần thánh là ở trong con người, con đường giải thoát là
con đường Tự Ngộ, và rằng, những bản kinh văn trên bắt buộc chúng ta phải xét
lại tận gốc quan điểm truyền thống về nguồn gốc và ý nghĩa của Ki Tô Giáo 5
Sau
đây chúng ta sẽ đi vào thêm một số chi tiết về sự ngu xuẩn của Giáo hội Công
Giáo đã tác hại trên nhân loại như thế nào.
II. Về Y Học:
Năm
540, bệnh dịch phát khởi ở Âu Châu làm chết khoảng 10000 người mỗi ngày. Dân
chúng hoảng sợ, kéo vào nhà thờ, tin tưởng sẽ được Chúa cứu cho khỏi chết. Giáo
hội giảng cho con chiên rằng: “Bệnh
dịch là một thiên tai do Thượng đế [của Công Giáo] gây ra (an act of God) và là sự trừng phạt của Thượng đế về tội quần chúng
không theo luật của Thượng đế” [thật ra chỉ là luật của những bộ óc giáo
sĩ thuộc thời bán khai đặt ra]. Trước sự bất lực của nền y học phôi thai thời
bấy giờ để đối phó với bệnh dịch, Giáo hội tuyên bố là y học của Hi Lạp và La
Mã là của bọn dị giáo (heretics) và quyết định Giáo hội phải nắm giữ và áp dụng
nền y học của Giáo hội trên quần chúng. Phương pháp chữa mọi bệnh của Giáo hội
vào những thế kỷ 5 và 6 là “lể máu” (bleeding) trên một số điểm trong số 22
điểm trên cơ thể con người. Giáo hội dạy rằng lể để làm cho chảy máu có thể
ngăn chận sự làm độc mất quân bình (toxic imbalance) trong cơ thể, ngăn chận sự
ham muốn tình dục, và hồi phục lòng yêu đời. Cho đến thế kỷ 16, phương pháp
chữa bệnh này của Giáo hội đã làm chết nhiều chục ngàn người mỗi năm. Khi bệnh
nhân chết vì chảy máu, Giáo hội giải thích là vì không chịu lể máu sớm hơn hoặc
làm máu chảy chưa đủ. Giáo hội còn dạy tín đồ phải coi rẻ mọi khía cạnh về thể
xác con người, do đó không khuyến khích tín đồ về vấn đề giữ vệ sinh cá nhân
hay tắm rửa. Kết quả là bệnh tật lan tràn khắp nơi. Trong nhiều trăm năm, thành
thị và làng mạc đều bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm, kết quả sự ngu dốt
của Giáo hội về y học, và áp đặt sự ngu dốt đó trên quần chúng.
III. Về Khoa Học:
Chính
sách đốt sách vở, văn học cổ, và đàn áp sự theo đuổi trí thức của nhân loại,
đúng như Joseph D. Daleiden đã nhận định ở trên là “Sự tiến bộ khoa học, đặc biệt là về y học, hoàn toàn
ngưng trệ. Văn hóa con người thoái hóa đến mức tàn bạo.”
Thật
vậy, ngay từ thế kỷ 6 Trước Tây Lịch (TTL) hay trước thời đại thông thường ngày
nay (B.C.E. =Before Common Era), Pythagore đã có ý tưởng là Trái đất quay xung
quanh mặt trời. Đến thế kỷ 3 Trước Tây Lịch, Aristarchus đã đưa ra thuyết mặt
trời làm trung tâm vũ trụ (heliocentric theory) và Eratosthene đã đo được chu
vi của trái đất. Đến thế kỷ 2 Trước Tây Lịch, Hipparchus đã biết đến Kinh Tuyến
và Vĩ Tuyến của Trái Đất và tính được độ xiên của quỷ đạo hình ellip của Trái
đất. Nhưng khi Giáo hội Công Giáo nắm được quyền thế trên thế gian, và như
chúng ta đã biết, đưa Âu Châu vào Thời Đại Tối Tăm 1000 năm, thì nhân loại phải
chờ đến thế kỷ 16 mới có được Copernicus lập lại thuyết trái đất quay xung
quanh mặt trời. Khi Galileo, trong thế kỷ 17, chứng thực thuyết trái đất quay
xung quanh mặt trời thì ông ta bị Tòa Án Đạo xử dị giáo bắt ông ta phải rút lại
lập luận và giam ông ta tại nhà cho đến khi chết. 359 năm sau, Tòa Thánh dưới
triều John Paul II mới công khai thú nhận là Giáo hội đã sai lầm trong vụ xử
Galileo. Trí tuệ các bậc Thánh trong giáo hội có thể biểu hiện điển hình trong
lời phán của Thánh Augustine, tác giả nền thần học căn bản của Công Giáo:
Không thể có
người ở phía bên kia của trái đất, vì trong những hậu duệ của Adam, không có
sắc dân nào được ghi trong Thánh Kinh (It is impossible there should be
inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded
by Scripture among the descendants of Adam.)
Lẽ
dĩ nhiên, Việt Nam là một sắc dân ở phía bên kia của trái đất, không liên hệ gì
tới Adam ở trong Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, cho nên dù Adam có sa ngã theo
thuyết hoang đường của Ki Tô Giáo, thì người Việt Nam cũng chẳng liên quan gì
đến cái tội tổ tông của người Do Thái, và do đó chẳng cần gì đến sự cứu rỗi của
một người Do Thái có tên là Giê-su. Những tín đồ Công Giáo Việt Nam đã
bị kéo vào một niềm tin lừa bịp của nền thần học Ki Tô Giáo. Họ cũng nên biết
rằng Giê-su đã coi nhưng người không phải là Do Thái là đồ chó, chỉ xứng đáng
ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi trên mặt đất. Tôi khuyên họ hãy đọc kỹ đoạn
Matthew 15: 21-28 trong Tân ước.
Trên
đây là tóm tắt núi tội ác thứ nhất của Công Giáo đối với nhân loại. Sách lược
tiêu diệt nền văn hóa của các tôn giáo hoặc tín ngưỡng khác đã được các Giáo
hội Ki Tô, đặc biệt là Công Giáo La Mã, tiếp tục thi hành một cách tàn bạo khi
Ki Tô Giáo liên kết với những lực lượng thực dân đi xâm chiếm các nước ở Phi
Châu, Châu Mỹ La Tinh, Á Đông và ngay cả ở Mỹ châu. Ki Tô Giáo đã thành công
trong sách lược này ở khắp nơi nhưng hoàn toàn thất bại ở Á Đông, trừ nước Phi
Luật Tân. Tại sao, vì khi văn hóa Ki-Tô đụng phải những nền văn hóa cao hơn ở Á
Đông như Phật Giáo, Khổng Giáo, Ấn Độ Giáo thì Ki Tô Giáo không thể thành công,
dù có liên kết với chế độ thực dân như ở Việt Nam. Chủ đề này sẽ được khảo luận
trong một bài khác.
______________________________________________
1.
The destruction of all evidence of Christianity's gnostic and pagan source was
"the first work." It was the evangelists themselves who started it,
in Antioch, as
stated in Acts... By order of the Church the books of the Gnostic Basilides
were burned, likewise Porphyry's thirty-six volumes. Pope Gregory VII burned
the Apollo library filled with ancient lore. Emperor Theodosius had 27,000
schools of the Mysteries paprus rolls burned because they, contained the
doctrinal basis of the Gospels.
Nor
did the destruction end with the Founders; the fanatics they made carried on the
work: the Crusaders burned all the books they could find, including original
Hebrew scrolls. ln 1233 the works of Maimonides were burned along with twelve
thousand volumes of the Talmud. In 1244 eighteen thousand books of various kind
were destroyed. According to Draper, Cardinal Ximenes "delivered to the
flames in the square
of Granada eighty
thousand Arabic manuscripts." On finding similar lore in the New World, the Spanish Christians destroyed it and the
temples that contained it.
All
evidence of source destroyed, the Christian Fathers coulld now substitute their
own absurdities. And to substantiate them they altered words and inserted
verses that did not exist in the original texts... On this same subject Massey
wrote thus: "..They had almost reduced the first four centuries to silence
on all matters of the most vital importance for any proper understanding of the
true origins of the Christian superstition. The mythos having been at last
published as a human history, everything else was suppressed or forced to
support the fraud."
According
to their teaching "the blood of Christ washed away the sins of the
world," still with us. What it actually washed away was the sanity of the
world. In due time its doctrines so bedeviled the Western mind that Agobard of
Lyons wrote thus "The wretched world lies now under the tyranny of
foolishness; things are believed by Christians of such absurdity as no on ever
could aforetime induce the heathen to believe." Should the skeptical
reader wish a sample, we offer another tale of Christian martyrdom, this time
about the precursor of the curse, lohn of the Gospels. According to the saints,
John, when very old, incurred the anger of the Emperor Domitian. To punish him,
the latter had this holy man thrown into a caldron of oil and resin. A fire was
lit, and when the liquid began to boil the jeering crowd heard a voice singing
in the flames - the Christian Shadrach, etc. When the caldron boiled dry, there
was John still alive and quite unharmed. Jerome, Eusebius, Tertullian all
relate this miracle and practically all hagiographies contain it. And now if
these eminent Christians could believe this absurdity, they could believe
anything even the Gospels.
2.
As the Church grew more powerful, Christians closed academies and burned books
as well as whole libraries. The Church burned enormous amounts of literature.
In 391 Christians burned down one of the world’s greatest libraries in Alexandria, daid to have
housed 700000 rolls. All the books of the Gnostic Basilides, Porphyry’s 36 volumes,
papyrus rolls of 27 schools of the Mysteries, and 270000 ancient documents
gathered by Ptolemy Philadelphus were burned. Ancient academies of learning
were closed. Education for anyone outside the Church came to an end.
The
Church opposed the study of grammar and Latin. Pope Gregory I objected to
grammatical study. He also condemned education for all but the clergy as folly
and wickedness. He forbade laymen to read even the Bible. He had the library of
the Palatine Apollo burned “lest its secular literature distract the faithful
from the contemplation of heaven.
After
Christians had spent years destroying books and libraries, St. John Chrysostom,
the preeminent Greek Father of the Church, proudly declared, “Every trace of
the old philosophy and literature of the ancient world had vanished from the
face of the earth.
3.
No mere recitation of statistics can convey the immeasurable evil that the
Roman Catholic Church dispensed in God's name. From the time that the papacy
cemented its power with the state in the fifth century until the Renaissance,
the cloak of ignorance and superstition was draped over Europe.
The light of freedom was extinguished. It is no longer fashionable to call them
the Dark Ages, but indeed they were. The ancient Romans had libraries of
500,000 volumes, there was not a library of over 600 volumes in Christian
Europe the period 500 to 1000. Scientific advance, especially in medicine, came
to a screeching halt. Human culture regressed to a more brutal level.
Ironically,
it was the initiation of the Crusades against the Muslims that shed a ray of
intellectual light through the gloom of ignorance and primitive superstitions.
Unlike the Christians who sought to destroy all knowledge that contradicted
their theology, the Muslims had preserved the wisdom of the ancient Greeks.
Moreover, they had made significant advances in Mathematics, philosophy, and
science. When the Crusaders returned from the East they brought with their
spoils of war the seeds of knowledge which, eventually, gave birth to the
Renaissance. Along with the pile of plundered Eastern artifacts and phony
relics, the Crusaders also brought back the art and literature of ancient Greece. The
writings of the Greek philosophers, which the Church had suppressed centuries
before, reappeared. Some of the philosophers such as Plato and Aristotle were
accornmodated in Church doctrine. Indeed, the writings of Thomas Aquinas,
especially his demonstrations for the existence of God, were basically a rehash
of Aristotle. But more importantly in the long run, Greek humanistic philosophy
found fertile ground in the minds of those who were painfully aware of the
futility of theological speculation and the evil of papal dogmatism. As a
result, the very foundation of the Church's intellectual and moral despotism
would begin to shake.
4.
When Christianity came in power it destroyed every statue it could lay its
ignorant hands upon. It defaced and obliterated every painting; it destroyed
every beautiful building; it burned the manuscripts, both Greek and Latin; it
destroyed all the history, all the poetry, all the philosophy it could find,
and reduced to ashes every library that it could reach with its torch. And the
result was, that the night of the Middle Ages fell upon the human race. But by
accident, by chance, by oversight, a few of the manuscripts escaped the fury of
religious zeal; and these manuscripts became the seed, the fruit of which is
our civilization today.
5.
These gnostic writings describe many of the people and events found in the New
Testament, but from a strikingly different perspective. They show us that the
early church, far from the unified body we have assumed it to be, was deeply
split from the beginning; that many followers of Christ were not in agreement
on the facts of his life, the meanings of his teachings, or the form the church
should take. From such texts as the Gospel of Philip and the Gospel of Thomas,
in which the apostle appears as Jesus' twin, we learn that some gnostic
Christians denied that Christ returned in the flesh and appointed Peter his
successor; that many gnostics challenged priestly authority and believe instead
in the presence of the divine within the human; that the way to salvation was
through self-knowledge...how these extraordinary texts compel us to reconsider
profoundly the traditional view of the origins and meanings of Christianity.
3.2. NÚI TỘI ÁC THỨ HAI CỦA CÔNG GIÁO:
NHỮNG CUỘC THẬP ÁC CHINH MANG TÊN “THÁNH
CHIẾN”
Theo
đúng những lời dạy trong Kinh Thánh, Cuốn Từ Điển Bách Khoa của Công Giáo (The Catholic Encyclopedia) định nghĩa các
cuộc Thập Ác Chinh là những cuộc chiến
tranh để theo đuổi một lời nguyện, và nhắm vào những kẻ không tin, nghĩa là,
những người Hồi Giáo, người ngoại giáo, dị giáo, và những kẻ bị tuyệt thông (lạc đạo hay rối
đạo) [Crusades: wars undertaken in pursuance of a vow, and directed against
infidels, i.e. against Mohammedans, pagans, heretics, or those under the ban of
excommunication.]
Thật
vậy, tất cả nguồn gốc và những sắc thái của những cuộc Thập Ác Chinh (Crusades)
mà người Công giáo gọi là “thánh chiến” (Holy wars) do Công giáo phát động, kéo
dài nhiều thế kỷ, máu đổ thành sông, xương chất thành núi, với hàng triệu sinh
mạng già trẻ lớn bé vô tội, có thể thấy rõ qua vài câu trích dẫn sau đây từ
cuốn “Thánh Kinh” của Ki Tô Giáo:
PHẢI
TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THƯỢNG ĐẾ... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI
DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU..CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT
HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI
MÌNH CHO CON TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON
CÁI CÁC NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI
XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT
TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG
CHẠM CỦA HỌ..
THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5)
LÚC
KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO, NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI HẠ ĐƯỢC THÀNH
ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT,
VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI PHẨM...BÊN TRONG LÃNH THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT
HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI TẬN DIỆT DÂN HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ
GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ TRUYỀN DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ
LÀM TỘI ÁC, THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI VỚI CHÚA.
THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 20: 12-18)
HÃY
MANG NHỮNG KẺ THÙ CỦA TA RA ĐÂY, NHỮNG NGƯỜI KHÔNG MUỐN TA NGỰ TRỊ HỌ, VÀ GIẾT
CHÚNG NGAY TRƯỚC MẶT TA.
GIÊ-SU (LƯU–CA: 19:27)
ĐỪNG
TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT. TA KHÔNG XUỐNG ĐÂY
ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO. VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ LÀM CHO CON CHỐNG LẠI
CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG, VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI
Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.
GIÊ-SU (MÃ-THI-Ơ: 10: 34-36)
Những
câu trích dẫn ở trên, và nhiều câu khác cũng như nhiều chuyện trong Thánh Kinh,
đã là căn bản, không những chỉ cho sách lược truyền đạo của Công giáo, điển
hình là ở Việt Nam, cho những cuộc Thập Ác Chinh, mà còn cho cả 7 núi tội ác
của giáo hội Công giáo mà giáo hoàng John Paul II cùng một số phụ tá cao cấp
trong tòa Thánh, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, về sau được phong
Hồng Y, đã công khai xưng thú với nhân loại ngày 12 tháng 3, 2000 tại thánh
đường Phê-rô.
Học
giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá đạo Công giáo qua
nhận định như sau trong cuốn The Final
Superstition:
"Nói tóm
lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo trong thế giới
xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch
sử, từ những cuộc diệt trừ những người dị giáo (hay lạc đạo) ngay từ thuở ban
đầu của Giáo hội, cho tới những cuộc Thập Ác Chinh, những tòa án đạo xử dị
giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo [Công giáo] đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và
chống loài người của tôn giáo này." 1
Riêng
về những cuộc Thập Ác Chinh, trước hết tưởng chúng ta cũng nên biết vài nhận
định tổng quát về những cuộc chiến tranh tôn giáo (religious wars) đã được giáo
hội khoác cho nhãn hiệu “thánh chiến” (holy wars).
Trong
cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn
Hiệu Thánh: Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An
Illustrated History Of Religious Murder And Madness), tác giả James A. Haught,
Chủ Biên tờ Charleston Gazette, đã viết như sau, trang 14, 19:
“Khi tôn giáo (Công giáo) nắm toàn quyền ở Âu Châu, nó đã tạo nên một thiên sử
thi tắm máu của những cuộc Thập Ác Chinh, những phòng tra tấn của Tòa Án Đạo xử
dị giáo, tận diệt hàng loạt những người “lạc đạo” hay “dị giáo”, hàng trăm cuộc
tàn sát người Do Thái, và 300 năm thiêu sống phù thủy.
“Thời
Đại Của Đức Tin” là một thời đại chém giết mang nhãn hiệu thánh. Khi tôn giáo (Công Giáo) dần dần không còn kiểm soát được đời sống
hàng ngày của người dân nữa, quan niệm về nhân quyền và tự do cá nhân đã mọc
rễ.
...Trong thực
tế, những cuộc Thập Ác Chinh là một cơn ác mộng thật ghê tởm với những cuộc tàn
sát, hiếp dâm, cướp bóc, hỗn loạn – trộn lẫn với niềm tin vào ảo thuật.” 2
Trong
cuốn Các Cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades), sử
gia Henry Treece viết trong phần mở đầu:
"Nhưng khi
chúng ta đọc nhiều hơn về các cuộc Thập Ác Chinh thì cái hình ảnh (mà Giáo hội Công
giáo đưa ra và ngày nay các tác giả Công giáo Việt Nam nhắc lại như những con
vẹt) trở thành nhơ nhuốc; sự nghiên
cứu (về
các cuộc Thập Ác Chinh) khó mà có thể
đưa ra sự thực mà chúng ta đã từng hi vọng. Chúng ta thấy các cuộc Thập Ác
Chinh và các Thập ác quân khác với những điều chúng ta thường tưởng tượng (theo như lời Giáo
hội tuyên truyền), và rút cuộc chúng
ta phải đồng ý với đoạn tổng kết của bậc thầy chúng ta, Ngài Steven Runcinan ,
trong cuốn Vương
Quốc Nghĩa Trang: "Đức Tin không
có trí tuệ thì thật là nguy hiểm.. Trong tương quan ảnh hưởng và hòa đồng giữa
Đông và Tây liên tục và lâu dài, từ đó nền văn minh của chúng ta đã phát triển,
những cuộc Thập Ác Chinh là một thời kỳ bi thảm và hủy diệt.. Đã có quá nhiều
sự dũng cảm nhưng lại quá ít vinh dự, đã có quá nhiều lòng sùng tín nhưng lại
quá ít hiểu biết. Những lý tưởng cao đẹp đã bị nhơ bẩn bởi sự độc ác và tham
lam, hành động táo bạo và sự chịu đựng bắt nguồn từ lòng tin mù quáng và hẹp
hòi tự cho mình là đúng; và chính cuộc Thập Ác Chinh cũng không gì khác hơn là
một hành động kéo dài của sự bất khoan nhượng nhân danh Chúa” 3
Và
trong cuốn Những Vị Thần Cuối Cùng Của
Huyền Thoại: Gia-Vê và Giê-su (Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus)
Tiến sĩ William Harwood đã viết, trang 156:
“Triết lý của
Phục Truyền Luật Lệ Ký, giết những người tin vào các huyền thoại khác trừ huyền
thoại của chính mình để bảo vệ các tín đồ trước những đạo khác là một hành động
của Thiên Chúa và đáng tán thưởng, trong thời đại Trung Cổ đã được thực thi
theo một kết luận hợp lý bởi những tín đồ Ki Tô (Công Giáo), những người trong vài thế kỷ, đã thẳng tay tàn sát
từ 30 đến 50 triệu kẻ thù của Thiên Chúa trong những biến cố như Thập Ác Chinh,
tòa án đạo xử dị giáo, cuộc chiến 30 năm, và những trường hợp tàn bạo khác.” 4
Vậy,
rõ ràng là những tội ác của Công giáo La Mã bắt nguồn từ Thánh Kinh. Nhưng
những luật lệ độc ác của Chúa Cha (Thần Gia-vê) cũng như Chúa Con (Giê-su)
trong Thánh Kinh không không đủ, vì giáo dân chẳng có mấy người đọc thánh kinh,
nhất là tuyệt đại đa số giáo dân trong thời Trung Cổ thuộc loại thấp kém, vô
học, mà còn phải cộng thêm với chính sách nhồi sọ mê hoặc của giáo hội về chủ
trương độc thần, về những huyền thoại như tội tổ tông, vai trò cứu thế của
Giê-su, giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, huyền thoại về miền đất
Thánh v..v.. đưa đến sự cuồng tín, tin nhảm tin nhí của đám tín đồ thấp kém,
Công Giáo mới có thể phát động được những cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung
Cổ, cũng như phạm những núi tội ác khác trong suốt dòng lịch sử gần 2000 năm.
Chứng minh?
Trước
hết, tại sao các Thập Ác quân (crusaders) lại bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ con, bỏ
ruộng đất, vườn tược để đi thiêu thân trong các cuộc thánh chiến, đối diện với
những cuộc hành trình gian khổ, bệnh tật, đói khát v..v..? Chúng ta có thể đọc
vài giải thích sau đây.
Trong
cuốn Sử Lược (The Outline of
History, Vol. 2, Garden City
Books, New York, 1956), sử gia H. G. Wells viết như sau, trang 540:
“Trong thời đại
ngu si đã có một sự sẵn sàng kỳ lạ tin rằng giới linh mục Công Giáo là thông
thái và thánh thiện. Tương đối giới linh mục khá hơn và khôn ngoan hơn trong
thời đó [đối
với quần chúng, nhưng ngày nay thì khác, giới linh mục là giới kém hiểu biết
nhất trong những giới trí thức].
Khởi đầu của
các cuộc Thập Ác Chinh cho ta hình ảnh của toàn thể Âu Châu bị bão hòa bởi một
Ki Tô Giáo [ý
nói tập thể giáo dân Công giáo] ngây
thơ, sẵn sàng tin cậy và đơn giản tuân theo sự chỉ đạo của giáo hoàng.” 5
Trong
cuốn Năm Thế Kỷ Của Các Cuộc Thánh
Chiến: Những Cuộc Thập Ác Chinh (Five Centuries of Holy Wars: The Crusades,
Malcolm Billings, Sterling Publishing Co., Inc., New York, 1996), Jonathan
Riley-Smith viết trong Lời Mở Đầu, trang 12:
“Tại sao họ (thập ác quân) ra đi? Họ sống trong một xã hội rất khác với xã hội
của chúng ta. Đó là một xã hội của những tín đồ mà đức tin của họ đã được củng
cố bởi một quan điểm về thiên nhiên và vũ trụ mà ngày nay chúng ta biết là sai
nhưng ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của họ.
Những hành động
độc ác tồi tệ của họ – sự bạo hành những người Do Thái không tự vệ trong cuộc
“tàn sát tập thể đầu tiên” [Trong cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (1096-1099), như chúng
ta sẽ thấy, sự tàn sát tập thể những cộng đồng Do Thái trên đường tiến quân của
những đoàn Thập Ác quân Công Giáo, ngày nay được coi như là “the First
Holocaust”. TCN] – đã phạm bởi những
người mà đầu óc của họ đã bị điều kiện hóa bởi ý niệm trả thù. Họ được giáo hội
(Công
Giáo) dạy là chiến đấu chống những
người không tin đạo là biểu thị lòng yêu Thiên Chúa một cách quá sai lầm đến độ
cuộc Thập Ác Chinh đối với họ là một hành động trả thù chống những người mà họ
lên án là làm “ô danh Chúa Ki Tô”. 6
Trong
cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng: Một Phê Bình
Đánh Giá Di Sản Do Thái – Ki Tô (The Final Superstition: A Critical
Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994),
Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo, viết, trang 54:
“Cuộc Thập Ác
Chinh thứ nhất được phát động bởi Giáo hoàng Urban II. Ông ta quạt những ngọn
lửa thù hận chính đáng [vào đám tín đồ]
bằng cách ban phép toàn xá – hoàn toàn tha thứ mọi hình phạt của Chúa vì những
tội trong quá khứ – cho bất cứ người nào đi giết người cho danh dự và vinh
quang lớn hơn của Thiên chúa. Nói cách khác, nếu Thập Ác quân bị giết, anh ta
được bảo đảm là sẽ lên thiên đường ngay lập tức.” 7
Và
sử gia Will Durant cũng viết trong bộ sử đồ sộ Câu Chuyện Về Nền Văn Minh (The Story of
Civilization, quyển IV) về Thời Đại
Của Đức Tin
(The Age of Faith), trang 588, về những thành phần tham gia cuộc thánh chiến:
“Một “ơn toàn
xá” xóa bỏ mọi hình phạt vì tội lỗi đã được ban cho những Thập Ác quân chết
trận. Các nông nô được phép rời bỏ ruộng đất mà họ bắt buộc phải lao động trong
đó; các công dân được miễn thuế; những kẻ nợ nần được hoãn trả tiền lời; các tù
nhân được phóng thích, và các tử tội được đổi thành khổ sai ở Palestine, do
quyền lực của giáo hoàng đã được suy diễn một cách trắng trợn. Nhiều ngàn kẻ du
thử du thực tham gia cuộc trường chinh thiêng liêng.” 8
Sống
trong thời đại mê tín, hấp dẫn bởi những hứa hẹn hoang đường, không đủ đầu óc
để biết đâu là sự thật, những đạo binh Thập Ác, như chúng ta đã biết, không
phải là những giáo dân đi “hành hương
thánh địa”
(sic), hoặc là những “giáo dân Âu Châu
sốt sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic) như vài tác
giả Công giáo Việt Nam đã viết láo [xin đọc bài của Ngô triệu Lịch], mà hầu hết
là những đoàn quân ô hợp gồm những nông dân ngây thơ cuồng tín, những nông nô
(serfs) được giải phóng để đi giết người cho Chúa, cùng với những kẻ thành tích
bất hảo như các tội phạm (criminals), ăn trộm ăn cắp (thieves), du thử du thực
ăn bám xã hội (vagrants) v..v... Vì vậy các đạo binh Thập Ác mới phạm phải
những tội ác vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Lẽ dĩ nhiên, những
đạo binh thập ác này bao giờ cũng có những cấp chỉ huy là Giám mục (bishops),
Linh mục (priests), Hiệp Sĩ thời đại (knights), và những nhà quý phái (noble
men), hầu hết không có kinh nghiệm quân sự.
Thật
vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn tóm tắt các cuộc Thập Ác Chinh trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh: Một Lịch Sử
Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An Illustrated History
of Religious Murder and Madness của James A. Haught), trang 19-27:
Giáo Hoàng
Urban II phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất vào năm 1096 để cướp lại Thánh
Địa từ những kẻ không tin đạo (Hồi giáo). “Thiên Chúa muốn thế” (Deus Vult = God will it) là tiếng kêu gọi để
tập hợp đoàn Thập Ác quân (crusaders) [Chúng ta thấy sự bịp bợm trắng trợn của Giáo
hoàng Urban II đối với đám tín đồ thấp kém vôhọc ở dưới. Theo Công giáo, một
trong những thuộc tính của Thiên Chúa là không ai có thể hiểu được
(uncomprehensible) nhưng những tham vọng thế tục của giới giáo sĩ Công Giáo, từ
Giáo hoàng trở xuống cho đến các linh mục, luôn luôn được diễn giải đó là “Ý
Chúa” và các tín đồ ngu dốt cứ nhắm mắt mà tin và phạm đủ mọi tội ác. Người
Công Giáo gọi crusaders là những “thánh giá binh” vì họ được dạy rằng, cái giá
hình chữ thập mà người La Mã dùng để đóng đinh những tội phạm như ăn trộm, ăn cướp
v..v..., một hình phạt thuộc loại man rợ nhất của người La Mã cổ xưa, đã trở
thành cái “thánh giá” vì Giê-su của họ bị đóng đinh trên đó (cùng lúc với 2 tên
ăn trộm). Charlie Nguyễn, một người Công giáo tỉnh ngộ đã phê bình: Nếu Giê-su
bị treo cổ thì cái thòng lọng treo cổ Giê-su sẽ trở thành cái “thánh thòng
lọng”. Qua những hành động của các “thánh giá binh” trong các cuộc Thập Ác
Chinh mà chúng ta đọc sau đây, danh từ chính xác phải là “Thập Ác quân”. TCN]. Khắp Âu Châu, những đám người cuồng tín lúc nhúc
trong những đoàn quân hỗn tạp ô hợp dẫn đầu bởi các linh mục có uy tín lôi cuốn
quần chúng. Nhiều chục ngàn người theo một linh mục dơ dáy, Peter the Hermit,
người đã trưng ra một lá thư mà ông ta nói là Thiên Chúa đã viết cho ông ta và
được Giê-su trao tận tay cho ông ta [Thiên Chúa là một sản phẩm tưởng tượng của
con người, còn Jesus thì đã chết từ ngàn năm trước, thế mà sự bịp bợm của Peter
the Hermit vẫn có người tin và đi theo ông ta để giết người] chứng nhận vai trò lãnh đạo của ông ta. Nhiều ngàn
người khác theo linh mục Walter the Penniless.
Trong thung
lũng sông Rhine ở Đức, một cánh Thập Ác quân đi theo một con ngỗng mà họ tin
rằng chính là hiện thân của Thánh Linh để hướng dẫn họ. Cánh quân này hợp với
cánh quân của Emich ở Leisingen, một lãnh tụ tuyên bố rằng một dấu Thập Ác đã
hiện ra trên ngực ông ta như là một thánh dấu (holy sign) của một phép lạ. Emich quyết định là, trước khi đi
trên 3200 cây số để giết những kẻ thù của Thiên Chúa ở vùng đất thánh, bổn phận
tôn giáo của Thập Ác quân là phải giết “những kẻ không tin đạo trong giữa chúng
ta”: những người Do Thái ở Mainz, Worms, và ở các thị trấn
Đức khác. Đoàn Thập Ác quân tràn qua những cộng đồng Do Thái, chém giết và
thiêu sống nhiều ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con không thể tự vệ. Nhiều người Do
Thái, trong những khu đã dựng lên chướng ngại vật để ngăn chận đoàn Thập Ác
quân, đã phải nuốt nước mắt giết con cái của mình rồi tự tử trước khi đoàn Thập
Ác quân ô hợp tràn vào.
Những đoàn quân
khác dẫn đầu bởi các linh mục Volkmar và Gottschalk cũng tàn sát tương tự những
người Do Thái ở Prague và Regensburg
ở Bavaria.
Thỉnh thoảng, trong giờ phút cuối cùng, dưới ngọn gươm, các nạn nhân được cho
một cơ hội sống sót bằng cách cải đạo vào Ki Tô Giáo.
Nhiều đoàn Thập
Ác quân khác đi qua những xứ Ki Tô như Hung Gia Lợi (Hungary),
Nam Tư (Yugoslavia) và Bulgaria.
Họ cướp bóc lương thực trong các vùng quê, gây nên những cuộc đánh nhau với dân
và quân lính địa phương. Trong một cuộc đụng chạm, đoàn quân của Peter the
Hermit đã giết 4000 dân Ki Tô ở Zemun, Yugoslavia, và thiêu rụi Belgrade gần
đó. Nhiều ngàn Thập Ác quân đã chết trong những trận đánh hỗn loạn ở Bulgaria.
Sau cùng, chỉ còn có một phần của những đoàn quân ô hợp là tới được đất Thổ (Turkey) của Hồi giáo, ở đó sau bị những đoàn quân Hồi giáo tàn
sát gần hết.
Sau đó, những
đoàn hiệp sĩ Ki Tô chuyên nghiệp đã được tổ chức để tham gia cuộc Thập Ác
Chinh. Các giám mục đi theo đoàn hiệp sĩ để ban phúc lành cho những hành động
ác ôn của họ. Những đoàn quân chuyên nghiệp này chặt đầu người Hồi giáo và đeo
những đầu lâu như là chiến lợi phẩm. Sau một trận thắng ờ bờ bể Syria gần
Antioch, Thập Ác quân mang về trại 500 đầu lâu. 300 đầu lâu được bêu trên các
cọc để khủng bố tinh thần quân Hồi đang giữ thành Antioch. Những linh mục ghi sử ghi rằng một
“Thập Ác quân giám mục” gọi những đầu lâu khủng khiếp đó là một cảnh ngoạn mục
hoan hỉ cho dân Chúa. Trong thành Antioch, quân Hồi, để trả đũa, cũng chặt đầu
các tín đồ Ki Tô rồi bêu hướng ra ngoài thành. Sau cùng Thập Ác quân đã tiến
vào Antioch ngày 3 tháng 6, 1098, và giết mọi dân chúng trong đó.
Rồi một đoàn
quân Hồi giáo tiến đến vây lại thành Antioch.
Thập Ác quân trong thành thiếu lương thực, gần chết đói, và linh mục Peter
Bartholomew tuyên bố rằng một thánh đã hiện ra trước ông ta trong một viễn
tượng và tiết lộ cho ông ta biết là cây giáo đâm lên cạnh sườn Giê-su khi
Giê-su bị đóng đinh được chôn ở dưới một nhà thờ trong Antioch. Cây Thánh Giáo (Holy Lance) được đào lên và là một thánh tích khích động sự cuồng
nhiệt của Thập Ác quân. Họ xông ra ngoài thành trong một cuộc chém giết cuồng
tín khiến cho quân Hồi phải bỏ trại mà chạy, để lại vợ đàng sau. Nhà ghi sử
Fulcher ở Chartres
hãnh diện ghi rằng: “Khi thấy những người đàn bà ở trong trại Hồi, Thập Ác quân
Pháp không làm điều gì ác ngoài việc dùng giáo mác đâm xuyên vào bụng họ”.
Tiến vào
Jerusalem, Thập Ác quân thanh tẩy cái thành thánh này bằng cách giết hầu như
mọi người dân trong đó. Người Do Thái trốn trong giáo đường bị thiêu sống cùng
với giáo đường. Thây người chất thành đống ngoài đường phố. Nhà ghi sử Raymond
ở Aguilers ghi rằng:
“Thật là những
cảnh kỳ diệu. Rất nhiều người Hồi bị chặt đầu... Nhiều người khác bị dùng làm
bia bắn tên hay bị ép phải nhảy từ những chòi cao xuống; nhiều người khác bị
tra tấn trong nhiều ngày, rồi thiêu sống. Ngoài đường phố có hàng đống những
đầu lâu, tay và chân. Trong đền Solomon (đền thờ Thiên Chúa do Solomon dựng
lên) ngựa lội trong máu ngập đến khuỷu chân, không phải, đến giây buộc yên
ngựa. Thật đúng là một sự phán xét công bằng và tuyệt vời của Thiên Chúa, rằng
chỗ này phải ngập đầy máu của những kẻ không tin Thiên Chúa. Trong hai thế kỷ
sau đó, Hồi giáo chiếm lại nhiều phần trong Thánh Địa, đưa đến 7 cuộc Thập Ác
Chinh khác của Ca Tô Giáo. Hầu hết những cuộc chinh chiến của Ca Tô Giáo này
bắt đầu bằng sự tàn sát những người Do Thái ở Âu Châu.
Trong cuộc Thập
Ác Chinh thứ ba, sau khi Richard the Lion-Hearted chiếm thành Acre
(ở phía Tây Bắc Jerusalem. TCN) năm 1191, ông ta ra lệnh mang 3000 người dân
trong thành, trong đó có nhiều đàn bà và trẻ em, ra giết ở ngoài thành. Các
thây người được mổ banh bụng để tìm kiếm những châu báu có thể đã được nuốt đi.
Các giám mục ngâm nga các bài kinh cầu nguyện tạ ơn Chúa. Nhà ghi sử Ambroise
viết: “Mọi người đều bị giết. Vì đây là ân huệ của đấng sáng tạo”. Thánh Bernard
ở Clairvaux đã chẳng nói khi phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ hai: “Người Ki Tô
thích thú trong cái chết của người ngoại đạo, vì như vậy Chúa Ki Tô đã được
vinh danh”.
Trong cuộc Thập
Ác Chinh thứ tư, các đoàn Thập Ác quân đã cướp sạch các thị trấn Ki Tô Constantinople và Zara. Cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con
năm 1212 là một thảm cảnh căn cứ trên niềm tin là Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh
cho những đứa trẻ ngây thơ để chiến thắng quân Hồi. Hầu hết bọn trẻ bỏ mình mà
không tới được Thánh Địa.
Sau cùng, mọi
sự chấm dứt năm 1291 khi Hồi giáo chiếm lại những căn cứ cuối cùng của Ki Tô
Giáo, Acre, và giết sạch những người Ki Tô trong đó để trả thù vụ Richard tàn
sát người Hồi trước đó một thế kỷ. Thánh Địa lại nằm trong tay của Hồi Giáo.
Hai thế kỷ giết chóc và tàn phá vô ích, chẳng được cái gì. 9
Về
những thánh tích (holy relics) trong Công Giáo, như cây giáo đâm vào cạnh sườn
Giê-su, tác giả James A. Haught có bình luận như sau, trang 24-25, chứng tỏ
Công Giáo là tôn giáo mê tín bậc nhất trong thiên hạ, và các vị lãnh đạo Công
giáo đã khai thác sự mê tín của đám tín đồ tới mức nào. Xin nhắc là, đi kiếm
“thánh tích” ở vùng Thánh Địa là một động cơ khích động tín đồ tham gia vào các
sự chém giết trong các cuộc Thập Ác Chinh:
Cái cây Thánh
Giáo (Holy Lance) có đúng là thật hay không hay chỉ là ngụy tạo không được các
linh mục ghi sử quan tâm. Giáo hội Ki Tô bị ám ảnh bởi việc kiếm ra và thờ
phụng các “thánh tích”. Những mảnh của cây thập giá mà Giê-su bị đóng đinh trên
đó, những mảnh thân thể các thánh (pieces of saints’ bodies), những giọt nước
mắt còn ướt của Giê-su (still-wet tears shed by Jesus), những mảnh từ cái mũ
gai Giê-su đội, những quần áo lót của Mary (Mary’s undergarments) – đó là những
vật được gìn giữ trong các hộp châu báu trong mọi nhà thờ lớn. Một ông vua
Saxony hãnh diện có được 17000 thánh tích, kể cả một cành trong bụi cây cháy
của Moses và một cái lông cánh của thiên thần Gabriel. Nhà thờ Canterbury
trưng bày một miếng đất sét còn lại sau khi Thiên Chúa dùng nó để nặn ra Adam (Canterbury Cathedral displayed
part of the clay left over after God fashioned Adam.) Sử gia Charles Mackay nói
rằng các nhà thờ Tây Ban Nha có 6 hay 7 cái xương đùi của Mary đồng trinh (six
or seven thighbones of the Virgin Mary), và các nhà thờ khác có những móng chân
của thánh Peter có thể chứa đầy một cái bị. Voltaire ghi rằng có 6 miếng da qui
đầu cắt ra khi Giê-su làm lễ cắt bì; về sau các nhà nghiên cứu đếm được 15
(Voltaire noted that 6 sacred foreskins were snipped from Jesus at his
circumcision; later researchers counted fifteen) 10
Trên
đây chỉ là sự mô tả sơ lược những cuộc Thập Ác Chinh của Công giáo La Mã. Qua
sự mô tả này, chúng ta hẳn đã thấy tất cả những sự tàn bạo và những điều cực kỳ
mê tín trong tôn giáo đó. Vậy mà các tác giả Công giáo Việt Nam đã mô tả những
cuộc Thập Ác Chinh như là những cuộc “hành
hương thánh địa”
(sic) của những “giáo dân Âu Châu sốt
sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic). Hiển nhiên là
đầu óc của họ thuộc loại hết thuốc chữa. Vấn đề là, trong thời buổi này, tại
sao họ vẫn còn hi vọng lừa dối độc giả bằng những luận điệu bẻ cong sự thật. Có
lẽ mục đích của họ không phải để cho đại chúng đọc mà chỉ để giữ tín đồ trong
vòng ngu dốt, mê tín và cuồng tín. Đây chính là sách sách lược của giáo hội
Công giáo toàn cầu từ xưa tới nay.
Thật
vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ NÓI GÌ VỀ NHỮNG
CUỘC THÁNH CHIẾN của tác giả Ngô Triệu Lịch, nói về những luận điệu bẻ queo sự
thật của Giáo hội Công giáo dạy đám tín đồ mà một số con vẹt trí thức Công Giáo
Việt Nam nhắc lại về các cuộc gọi là “Thánh chiến”:
Bài
viết này không phải là một “khảo cứu lịch sử” về các cuộc thánh chiến, do Giáo
hội Rôma phát động. Nhưng thông qua “lịch sử thánh chiến”, người viết muốn đưa
ra những nhận định của mình, về quan điểm của một số tác giả Công giáo người
Việt, khi họ đề cập đến “thánh chiến” mà người viết đã có dịp đọc qua trên các
sách, báo, tạp chí, hoặc các website Công giáo…
Đại để,
các tác giả Công giáo khi đề cập đến “thánh chiến”, họ đều có chung những nhận
định mang tính hộ giáo, dù họ thừa nhận có những sai lầm nhất định trong các
đợt phát động thánh chiến của giáo hội, nhưng tất cả đều vận dụng những quan
điểm thần học cũ kỹ, lạc hậu, như: “ý chúa”, “sự quan phòng”, “chúa thánh thần
dẫn dắt”… để biện minh cho những sai lầm ấy. Tâm lý tự ti, mặc cảm, là điều dễ
thấy trong các lập luận. Ngụy biện, gượng ép, đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, cho
sự hiếu chiến của Hồi giáo, cho những tham vọng chính trị của vua chúa các nước
châu Âu, ngụy biện những cuộc thánh chiến do “mẹ giáo hội” phát động chỉ là sự
tự vệ… Từ đó, hướng độc giả vào một cái nhìn “cảm thông”, vẽ ra chân dung của
một Urban II “thánh thiện, dũng cảm và khôn ngoan”, một đoàn người hành hương
“sốt sắng, đạo đức, thấm nhuần Tin Mừng”… Tội ác tày trời của đế quốc Vatican dưới
ngòi bút của họ biến thành con số không…Và đặc biệt, họ say sưa ca ngợi “chúa
quan phòng”, bắt “chúa” của họ phải “quan phòng” đến cả những tội ác mà giáo
hội Công giáo La Mã đã gây ra cho nhân loại…
Để biện
hộ cho sự hiếu chiến của “mẹ giáo hội” của họ, các tác giả Công giáo người Việt
đã lập luận bát nháo, bất chấp sự tròng tréo, mâu thuẫn trong cùng một sự kiện.
Ví dụ: Linh mục Phạm Đức Trị viết : “Có thể nói Ðức Urban II chỉ có ý mời gọi những binh
lính đã từng cầm võ khí, và đã có kinh nghiệm gia nhập Ðạo Binh Thánh giá mà
thôi, vì ngài có ý thiết lập một đội binh tinh nhuệ cho một cuộc thánh chiến.
Nhưng không ngờ tiếng nói của ngài đã làm ảnh hưởng tới một Âu châu sốt sắng,
đạo đức sau những tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng.” (Lm. F.X. Phạm Ðức Trị,
OMI. Giáo Hội Thời Ðạo Binh Thánh Giá, CD-rom vietcatholic 2001). Trong khi đó,
lập luận của tác giả Đình Vượng hoàn toàn ngược lại: “Lời kêu gọi của Giáo
hoàng Urbani II không nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng
đại của người tín hữu. Sau lời kêu gọi của Giáo hoàng, tu sĩ Pierre L’Ermite và
hiệp sĩ Adémar de Monteil chẳng biết gì về quân sự lại đứng ra tập hợp quần
chúng thành những đoàn quân, kéo về Constantinople.
Người Bazance hốt hoảng và Giáo hoàng Urbain đã không trù liệu một đoàn thập tự
chinh ô hợp đã bị người Hồi tàn sát gấn hết ở Tiểu Á ” (Đình Vượng, Quan hệ
Vatican và Giáo hội Công giáo, tr 269).
So sách hai
trích dẫn của hai tác giả nêu trên, ta thấy, theo Lm Phạm Đức Trị, Giáo hoàng
Urban II chỉ triệu tập những binh lính tinh nhuệ gia nhập đạo binh thánh giá,
chứ không hề kêu gọi quần chúng tham gia. Những ông già, bà cả, trẻ con, tự
nguyện tham gia thánh chiến, chẳng qua vì họ quá “sốt sắng, đạo đức sau những
tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng…”, chứ Giáo hoàng không hề kêu gọi họ. Ngược
lại, tác giả Đình Vượng khẳng định: “Lời kêu gọi của Giáo hoàng Urbani II không
nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng đại của người tín
hữu”. Vì thế, Pierre L’Ermite và Adémar de Monteil là những người vốn mù tịt về
quân sự, được giao trọng trách mang đoàn quân thập tự ô hợp đến Tiểu Á để cho
quân Hồi giáo “nướng” sạch!... Cùng một sự kiện lịch sử, nhưng cả hai tác giả
Công giáo này có hai lập luận mâu thuẫn, đối nghịch nhau. Tuy vậy, cả hai đều
gặp nhau ở cùng một điểm: chạy tội cho “mẹ giáo hội” vốn đang rất sốt ruột vì
quân Hồi chiếm giữ đất thánh Jêrusalem! Và cũng vì tín đồ rất “đạo đức, sốt
sắng, thấm nhuần Tin Mừng !?” đang khao khát hành hương đất thánh…
Sự kiện Giáo
hoàng Urban II triệu tập công đồng Clermont kêu gọi "tái chiếm Jêrusalem,
cứu đất thánh” là một vết nhơ khó tẩy của đế quốc Vatican. Dù muốn biện hộ thế nào
thì cuộc chiến do Urban II phát động vẫn là một tội ác. Urban II đã lợi dụng
lòng tin mù quáng của đám tín đồ cuồng tín, hứa "ban ơn toàn xá" để
bảo đảm “phần rỗi linh hồn” cho họ, đẩy họ vào cuộc chiến không cân sức với đội
quân tinh nhuệ Hồi giáo. Ðiều trớ trêu là những người tham gia thánh chiến vì
ham mê "ơn toàn xá" của Giáo hoàng mà gia nhập chứ họ chưa hề qua một
lớp huấn luyện quân sự nào. Kết quả là nhiều người trong đoàn quân ô hợp, vô kỷ
luật và cuồng tín "lên thiên đàng thẳng cẳng" nhờ ơn toàn xá của Giáo
hoàng!.. Phịa chuyện “tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu dưới bàn
thờ đền thánh Phêrô” để kích động sự cuồng tín của tín đồ, đẩy họ vào chỗ chết,
dẫu có biện hộ thế nào, vẫn cứ là một tội ác.
Chúng
ta thấy, trong 2000 năm nay, Giáo hội Công Giáo đã áp dụng triệt để chủ thuyết
hắc ám, nghĩa là chủ truơng làm cho tín đồ trở thành ngu muội, tối tăm, với tâm
cảnh nô lệ, hoàn toàn tuân phục giáo hội và bắt buộc phải tin rồi lập lại bất
cứ luận điệu nào của giáo hội giải thích về bất cứ một vấn đề nào đó, bất kể là
luận điệu đó hoàn toàn sai với sự thực.
Những
cuộc Thập Ác Chinh của Công giáo kéo dài trong bao nhiêu năm? Tất cả các học
giả đều đồng ý là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên khởi sự năm 1096. Nhưng những
cuộc Thập Ác Chinh chấm dứt năm nào thì có nhiều công cuộc nghiên cứu đưa ra
những năm khác nhau. Trước đây người ta thường cho rằng các cuộc Thập Ác Chinh
chấm dứt vào năm 1396 hoặc chậm nhất là năm 1444. Các đây 50 năm, sử gia Steven
Runciman viết Thập Ác Chinh chấm dứt năm 1464. Và rồi có những cuộc nghiên cứu
khác đưa ra những niên kỷ như 1560 và 1571. Cuối cùng là năm 1798. Sinh viên
ngày nay phải đối diện với 700 năm Thập Ác Chinh song song với lịch sử của toàn
thể Âu Châu, từ Greenland đến Hi Lạp, từ Tây Ban Nha đến Nga, cùng với Tây Á,
Bắc Phi và Châu Mỹ La Tinh, tùy theo các học giả định nghĩa Thập Ác Chinh như
thế nào.
Tuy
nhiên, thường thì trong lịch sử Công giáo, người ta chỉ kể có 8 (hoặc 9, tùy
theo quan niệm) cuộc Thập Ác Chinh chính (nhà trí thức Công giáo Võ Đức Hạnh đã
gọi cuộc xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ thừa sai Công giáo, sát cánh với
thực dân Pháp, là "cuộc Thập Ác Chinh thứ 9"). Có học giả còn cho
rằng Công giáo vẫn tiếp tục tung ra những cuộc Thập Ác Chinh, và một vài luận
điệu thần học của nhóm Ki Tô hiếu chiến trong thế kỷ 20 đã dập theo khuôn của
giáo hoàng Urban II và thánh Bernard (Much of the world of the crusaders is
still in evidence. Some of the theology of the 20th century
“militant” Christianity, now prevalent in Africa, Asia and South America, might
well have come from the lips of Pope Urban II or St. Bernard of Clairvaux),
dưới một hình thức khác với các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ.
Gần
đây, có nhiều dư luận cho rằng cuộc xâm chiếm Iraq của Mỹ có hình thức một cuộc
Thập Ác Chinh của Ki Tô Giáo chống Hồi giáo. Tổng thống Bush đã dùng danh từ
“Thập Ác Chinh ” (crusade) sau vụ 11 tháng 9, 2000. Và tổng thống Bush cũng
quyết định gạt Âu Châu ra ngoài, chỉ trao khế ước xây dựng lại Iraq cho những
tổ chức Mỹ, coi đó như là phần thưởng cho những người ủng hộ chiến tranh
(Chicago Tribune, Dec.12, 2003: President Bush says war’s backers should be
rewarded).
Đại
cương thì các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ là do các giáo hoàng phát
động hoặc cổ võ, khuyến khích và chấp thuận, và kết quả là những cuộc tàn sát
tập thể người Do Thái, Hồi Giáo, và cả những người Ki Tô Giáo không cùng đức
tin với Công Giáo, không đồng thuận và không chấp nhận quyền lực của giáo
hoàng, vừa để tiêu diệt những người khác đạo, vừa để giành lại vùng Thánh Địa
Jerusalem mà người Công giáo tin là thuộc về họ theo lời hứa của Chúa, và nhất
là để cướp bóc vơ vét của cải thế gian.
Ở
đây, hiển nhiên tôi không thể viết đầy đủ về các cuộc Thập Ác Chinh của Công
giáo, mà chỉ có thể đưa ra những nét chính của vài cuộc thánh chiến quan trọng
nhất. Có ba cuộc Thập Ác Chinh phản ánh trung thực nhất sự tàn bạo của Công
giáo La Mã và ảnh hưởng mê hoặc của Công giáo lên đầu óc con người, từ già tới
trẻ: đó là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (The First Crusade) với chủ đích chính
là giành lại thánh địa Jerusalem và ngôi mộ Giê-su; cuộc Thập Ác Chinh
Albigense (The Albigensian Crusade) để tận diệt những người Ki Tô không có cùng
niềm tin với người công giáo; và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ (The
children’s Crusade) mà nguyên nhân là sự ngu dốt và cả tin của những đầu óc
ngây thơ vào những điều hoang đường trong thánh kinh mà chúng được nghe giảng
dạy.. Chúng ta đã biết sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất và vài cuộc Thập
Ác Chinh sau đó qua sự mô tả ở trên của James A. Haught. Sau đây tôi sẽ trình
bày sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh Albigense và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa
trẻ để chúng ta thấy rõ sự tàn bạo và mê tín của Công Giáo lên đến mức nào.
Những phần viết sau đây được lấy từ những nguồn tài liệu khác nhau.
Cuộc Thập Ác Chinh Albigense.-
Công
giáo giết người theo Hồi Giáo trong các cuộc Thập Ác Chinh. Công giáo cũng giết
những người Do Thái trong những cuộc tàn sát vô tiền khoáng hậu. Nhưng không
phải tất cả chỉ có thế. Công giáo cũng còn xuống tay giết những người Ki Tô
Giáo mà họ cho là lạc đạo hay dị giáo (heretics), nghĩa là những người không
chịu tin theo những tín lý nhảm nhí của Công Giáo. Cuộc tàn sát những người
“lạc đạo” dã man, tàn nhẫn và ghê tởm nhất của giáo hội Công giáo là cuộc Thập
Ác Chinh Albigense, phát động bởi giáo hoàng Innocent III năm 1208.
Giáo
phái Ki Tô Albigense tương tự như đạo Cao Đài của Việt Nam. Giáo phái này tin vào giáo thuyết
của một nhà cải cách Ba Tư, Mani, người bị đóng đinh trên thập giá năm 277. Đầu
óc cởi mở của Mani chấp nhận tất cả những nhà lập giáo lớn – Moses, Zoroaster,
Đức Phật và Giê-su. Ngoài ra, Giáo phái này còn lên án sự giàu sang và phi luân
của giới giáo sĩ Công giáo (denounced the riches and immorality of the clergy),
cho nên giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc “Thập Ác Chinh” chống
giáo phái này, cho phép các thập ác quân được cướp bóc, hãm hiếp và giết bọn
người xấu số này (The Pope preached a “crusade” against them, so giving
complete licence to any wandering scoundrel to rob, rape and kill these
unfortunates).
Sau
đây là sơ lược diễn tiến của cuộc Thập Ác Chinh Albigense, được kể trong cuốn Máu Thánh, Chén Thánh ("Holy Blood,
Holy Grail", Michael Baigent, Richard Leigh, and Henry Lincoln, trg.
49-50):
"Năm 1209,
một đoàn quân khoảng 30 ngàn người, gồm các kỵ sĩ và bộ binh, như 1 cơn gió lốc
từ miền Bắc Âu Châu tràn xuống Languedoc - vùng chân núi phía Đông Bắc của dãy
núi Pyrenees, ngày nay là miền Nam nước Pháp. Trong cuộc chiến tranh này, toàn
vùng bị tàn phá, mùa màng phá hoại, các thành phố và thị trấn thành bình địa,
cả 1 dân tộc bị chém giết. Cuộc tiêu diệt này rộng lớn và khủng khiếp đến độ ta
có thể coi đó như là trường hợp đầu tiên của chính sách "diệt chủng"
trong lịch sử Âu Châu hiện đại. Thí dụ, chỉ nguyên trong thành phố Béziers, ít
nhất là có 15 ngàn người: đàn ông, đàn bà, trẻ con bị tàn sát, nhiều người bị
giết ngay chính trong cung Thánh của nhà thờ. Khi một sĩ quan hỏi vị đại diện
của Giáo Hoàng: 'làm sao phân biệt được ai là tín đồ và ai là tà đạo?' thì câu
trả lời là: "Giết hết đi. Thiên Chúa sẽ nhận biết ai là tín đồ của
Người." Sau đó, chính vị đại diện trên hãnh diện báo cáo với giáo hoàng
Innocent III ở La Mã là: "Không một ai, bất kể thân phận, tuổi tác, hay
trai gái, được sống sót."
Sau Béziers,
đoàn quân xâm lăng tràn qua toàn vùng Languedoc.
Các vùng như Perpignan, Narbonne, Carcassonne, Toulouse lần lượt rơi vào tay đoàn quân này.
Và bất cứ nơi nào đoàn quân đi qua cũng để lại dấu vết của cảnh tàn sát, máu
đổ, chết chóc. Cuộc chiến này, kéo dài trong 40 năm, ngày nay được biết dưới
tên "Cuộc Thập Ác Chinh Albigense." Đây là cuộc Thập Ác Chinh theo
đúng nghĩa của nó. Chính giáo hoàng đã huy động cuộc Thập Ác Chinh này. Đoàn
Thập ác quân, mang dấu thập ác trên quân phục, như những Thập ác quân ở Palestine trước đó. Phần
thưởng cho họ cũng giống như phần thưởng cho những Thập ác quân trong vùng đất
Thánh: được tha mọi tội lỗi, được giải tội, được bảo đảm một chỗ trên Thiên
Đàng, và được làm chủ tất cả những tài vật có thể chiếm đoạt được." 11
Với
lịch sử tàn bạo giết người Ki Tô không cùng niềm tin với người Công giáo của
Giáo hội Công giáo ngay từ đầu, chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy Công giáo
đã ra tay tàn sát những người Tin Lành trong thế kỷ 17, 18 và còn kéo dài cho
đến ngày nay tại một vài vùng địa dư, điển hình là ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Tuy nhiên,
ngày nay giáo hội Công giáo đã mất đi quyền lực thế tục nên ít còn khả năng
giết người “lạc đạo” cũng như người “ngoại đạo”. Nhưng lịch sử rất có thể tái
diễn bất cứ ở nơi nào mà Công giáo nắm được quyền lực thế gian. Những cuộc giết
người khác đạo của Công giáo trong thời cận đại, điển hình là Palevich ở
Croatia đã giết 700000 người Chính Thống (Orthodox) và Hippies ở Croatia, Ngô
Đình Diệm giết hoặc cưỡng bách nhiều ngàn Phật tử và người ngoài đạo cải đạo ở
Nam Việt Nam là những kinh nghiệm để cho chúng ta luôn luôn phải đề phòng khi
người Công giáo nắm được địa vị thế quyền. Avro Manhattan, tác giả cuốn Vatican’s Holocaust, cũng đã báo động trong cuốn sách nổi
tiếng trên của ông:
“Những đoan
quyết (về đức tin) căn bản của Công Giáo chưa bao giờ thay đổi chút nào. Cho
đến nay, cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của giáo hội Công giáo vào tính cách
duy nhất của mình vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì sự chấp chặt này
mà đã xảy ra những tòa án xử dị giáo, Croatia
và chế độ độc tài Công giáo ở (Nam)
Việt Nam.
Nếu quá khứ là
một dấu hiệu về sự thành hình những việc có thể xảy ra trong tương lai, thì khi
nắm được cơ hội và trong một bối cảnh chính trị thích hợp, những tòa án xử dị
giáo mới, những Cratia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi
nào, ở đâu, và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được.” 12
Trong
thời Trung Cổ, giáo hội Công giáo ở vị thế quyền lực thế gian tuyệt đối. Giáo
hoàng đứng trên vua chúa, giáo dục quần chúng nằm trong tay giáo hội. Nền giáo
dục Công giáo, hay nói cho đúng hơn, chính sách nhồi sọ của giáo hội trên những
đầu óc còn non dại đã khiến cho lớp trẻ mê mẩn về những điều giáo hội dạy về
Công Giáo, về Thánh Kinh, tuyệt đối tin vào những điều mê tín hoang đường. Thí
dụ điển hình về chính sách nhồi sọ của giáo hội Công giáo đã đầu độc đầu óc lớp
trẻ, đưa đến cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ vị thành niên như chúng ta sẽ
thấy sau đây.
Cuộc Thập Ác Chinh Của Những Đứa Trẻ.-
Sau
đây là lời tường thuật cuộc Thánh chiến của những đưa trẻ vị thành niên trong
cuốn Các cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades by
Henry Treece, trg. 182-185). Thực ra đây không phải là một cuộc Thập Ác Chinh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ là một thảm trạng bắt nguồn
từ một niềm tin tôn giáo sai lầm, mang tinh thần Thập Ác Chinh, của những trẻ
vị thành niên bị đầu độc tư tưởng bởi những huyền thoại trong Thánh kinh.
"Năm 1212
một sự việc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới đã xảy ra: trẻ em Pháp và
Đức đã tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh, không được sửa soạn kỹ càng, không có vũ
khí và không có gì giúp chúng ngoài sự ngay thẳng ngây thơ của chúng.
Vua Pháp là
Philip, đang ở St. Denis, thì một em bé trai chăn cừu 12 tuổi, tên là Stephen ở
vùng Cloyes, gần Orleans, đến yết kiến ngài với một lá thư mà em nói rằng do
chính Chúa Ki tô gửi cho em, bảo em tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh tiến vào
Jerusalem.. Vua Pháp ra lệnh cho em nhỏ trở về nhà cha em, nhưng Stephen đang ở
trong sự say mê điên cuồng tôn giáo. Hắn dám bất tuân ngay cả lệnh vua, tuyên
bố rằng, trong một kiến giác (vision) (ngày nay chúng ta gọi là ảo giác
(delusion)), Chúa KiTô đã hứa là biển sẽ khô cạn để cho Stephen và tất cả những
ai theo hắn có thể an toàn đi trên biển như đi trên bộ tới Jerusalem. giống như câu chuyện hoang đường
ngày xưa (trong Thánh Kinh): Hồng Hải đã mở ra cho Moses, con người chăn cừu
kia.
Một vài giáo sĩ
thất kinh về cái sự phỉ báng của đứa trẻ - nhưng, kỳ thay, Giáo hoàng Innocent
III tuyên cáo là "chính những đứa trẻ đặt chúng ta vào sự ô nhục"
(một lời khuyến khích có ý nói là lòng tin của những đứa trẻ mãnh liệt hơn của
chúng ta), và, chắc hẳn Stephen có một khả năng thuyết phục làm cho người ta
ngỡ ngàng trước một người còn quá trẻ và vô học như Stephen. Trẻ em từ nhiều
vùng trong nước Pháp tụm lại quanh Stephen, mang theo cờ xí trên có dấu cờ hiệu
của Vua. Đến tháng 6, 1212, ở nơi họp, Vendôme, có tới 30,000 đứa trẻ tập họp
lại để bắt đầu cuộc tiến quân lâm ly tới vùng đất Thánh, không có bản đồ và
không có ngay cả lương thực. Họ sắp sửa dự phần trong cái mà ta chỉ có thể gọi
là một niềm tin thống thiết.
Chúng ta không
thể biết được có bao nhiêu em lẩn tránh được sự ngăn cấm của bố mẹ: có thể các
bậc cha mẹ, nghe lời tán thán của giáo hoàng, sợ không dám tranh đua với sự
chấp thuận của giáo hoàng, có thể họ không có mấy quyền trong những địa hạt mà
chính họ đã đi theo Boniface và Dandolo (2 tư lệnh trong cuộc Thập Ác Chinh thứ
4; TCN); và có thể vì cái khả năng quyến rũ của Stephen đã khiến cho đám trẻ
trai gái này trở thành điếc trước mọi lời khiển trách. Dù sao thì, đám trẻ này
đã lên đường mùa hè năm đó, có nhiều người lớn thuộc loại ăn bám nhập bọn, kể
cả những linh mục bị lôi cuốn bởi cái sự ngây ngất truyền nhiễm này, và đi qua
những vùng Tours, Lyons xuống tới Marseilles, dọc đường kiếm ăn ở nơi nào có
thể kiếm được.
Nhưng mùa hè
năm 1212 nóng một cách bất thường, mùa màng chưa gặt, thực phẩm và nước uống
hiếm hoi vì hạn hán. Nhiều em chết ở dọc đường trong khi một số khác tìm đường
quay trở về quê. Sau cùng, khi số còn lại tới được Marseilles thì chúng bị thất vọng lớn vì thấy
biển không khô cạn như đứa trẻ chăn cừu Stephen đã hứa để chúng đi tới vùng đất
Thánh.
Sau vài ngày
sống cực khổ ở hải cảng này, chúng được hai người lái buôn vô lương tâm đến
tiếp xúc. Hai người này, tên là Hugh the Iron và William the Pig đề nghị chở
đoàn trẻ này tới Palestine bằng 7 chiếc tàu, hoàn toàn miễn phí.
Stephen vui vẻ
nhận lời, coi đó như là cánh tay của Thiên Chúa cứu vớt chúng một cách huyền
nhiệm. Những tàu này ra khơi nhưng đi xuống phía Nam chứ không đi tới vùng đất
Thánh. Nơi tới là hải cảng Bougie của dân Saracen, nơi đây tất cả các đứa trẻ
Pháp này đều bị bán đi làm nô lệ.
...Người ta cho
rằng trong số 30000 trẻ em phát xuất từ Vendôme, chỉ có một người duy nhất, một
linh mục trẻ, trở về được nước Pháp, sau 18 năm bị làm nô lệ."
Cái cơn sốt
Thập Ác Chinh này lan tới các trẻ em Đức. Chúng bị kích động bởi lời thuyết
giảng của một em trai tên là Nicholas. Nicholas cũng nói với chúng về biển cả
sẽ mở ra để chúng có thể an toàn bước qua tới Jerusalem. "Quân đội" của Nicholas
ước lượng khoảng 20000 đứa trẻ và những kẻ ăn bám, tốt và xấu. Cái đoàn trẻ tả
tơi này vất vả đi qua dãy núi Alps và, hao hụt một cách đáng buồn bởi chết chóc
và đào ngũ, sau cùng cũng tới được Genoa.
Ở đây chúng bị một ông thống đốc, vì không muốn dung dưỡng một đám trẻ lộn xộn
đói khát và bệnh tật, đuổi đi không cho vào thành. Thế rồi, như những sinh vật
trong giấc mộng chết chóc, chúng lê lết xuống phía Nam, những viễn tượng về sự
giải thoát Thánh địa đã bị quên đi trong đói khát và hấp hối.
Giáo hoàng
Innocent III đã nói:."Chính những đứa trẻ đã đặt chúng ta vào vòng ô
nhục". Ngài đã nói đúng như thực, dù có thể trong một nghĩa khác với ý
định của ngài. Sự ô nhục thuộc chính giáo hoàng vì đã không ngăn cấm sự phí
phạm độc ác này; thuộc các bậc cha mẹ vì đã để cho con cái ra đi; và thuộc các
nông dân vì đã từ chối không cho bọn trẻ ăn, ở, hoặc thuộc những người chấp
chứa chúng chỉ để kiếm lời trên sức lao động nô lệ của chúng. Người ta ước tính
trong số 20000 trẻ em dự cuộc hành trình để cứu những nước KiTô, không quá 2000
được trở về nhà. Kể ra chúng còn tốt số hơn là những đứa trẻ Pháp." 13
Có
lẽ tôi cũng nên ghi thêm ở đây là, Joseph L. Daleiden, Ibid., trg. 55, có một
nhận định như sau về những cuộc Thập Ác Chinh:
"Càng suy
nghĩ về vấn đề này tôi càng thấy cả 9 cuộc Thập Ác Chinh đều là những cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con. Tất cả những người lính nông dân chất
phác đó đều ngu tối như đám trẻ, mù quáng tuân theo sự cổ võ của các giáo hoàng
để đi giết những người dân Ả Rập đang bảo vệ đất đai của họ." 14
Đó
là những sắc thái và đặc tính của những cuộc Thập Ác Chinh, và Thập Ác Chinh là
sản phẩm đặc thù của Công Giáo La Mã ở Âu Châu, khi các giáo hoàng ở vị thế nắm
quyền thế gian, dùng quyền hành và khai thác lòng mê tín dị đoan của các tín
đồ, gây ra những cuộc tàn sát khủng khiếp, xương chất thành núi, máu chảy thành
sông, để chiếm đất, giành dân.
Tưởng
chúng ta cũng nên biết thêm vài chi tiết về những sự kiện xung quanh các cuộc
Thập Ác Chinh. Tháng 4, 1095, một trận mưa thiên thạch lớn rơi xuống Âu Châu.
Giám mục Gislebert ở Lisieux diễn giải đó là dấu hiệu của Thiên Chúa kêu gọi
một cuộc Thập Ác Chinh chiếm lại Thánh Địa ở miền Đông. Đến tháng 11 năm 1095,
giáo hoàng Urban II triệu tập một công đồng ở Clermont, Auvergne, để phát động
cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất. Trong một bài diễn văn nẩy lửa, giáo hoàng nói: “Ngày tận thế đã gần kề. Ngày cáo chung của tên Chống
Chúa (Antichrist = Satan) cũng sắp tới. Tuy nhiên, nếu hắn tới, hắn sẽ không
thấy một tín đồ Ki Tô nào ở Thánh Địa (đang ở trong tay Hồi giáo), vì ngày nay
không còn ai ở đó để mà chống hắn.” Rồi giáo hoàng đưa ra nhiều hứa hẹn với đám
giáo dân thấp kém như ban “ơn toàn xá” và cho vé lên thiên đường nếu chết trận,
hứa sẽ săn sóc gìn giữ của cải của các chiến binh để lại hậu phương, điều mà
giáo hoàng không hề giữ lời, được giữ những tài vật chiếm đoạt được, và nhất là
được quyền cướp những thánh tích trong các mộ thánh tử đạo (Pope Urban gave
sanction to a repetition of such an act of relic-gathering, of expiation by the
robbery of martyr-tombs). Điều này rất hấp dẫn đối với dân Âu Châu vì họ đang
sống trong một thời đại mà bất cứ cái gì còn lại của các “thánh”, hay đã được
các “thánh” sờ tới, đều được tin là có những năng lực siêu nhiên. (It was an
age in which the remains of “holy” people, or things touched by “saints”, were
believed to be imbued with supernatural power). Jerusalem không những chỉ là
miền đất mà các “thánh” đã đi qua đi lại, mà chính Giê-su, hiện thân của Thiên
Chúa, cũng đã từng đi trên miền đất đó, chết đi và sống lại ở đó. Đối với những
giáo dân và những kẻ đi thâu thập “thánh tích” cho những nhà thờ, giáo xứ để
thờ phụng, thì không còn gì hấp dẫn hơn là Jerusalem. Vì ở đó có ngọn “thánh
giáo” (holy lance) đã đâm lên cạnh sườn Giê-su, có cây “thánh giá” mà Giê-su bị
đóng đinh trên đó, có xá lị của John the Baptist, thân thể của Thánh George,
những mảnh đá trong mồ Chúa, và ngay cả nước sông Jordan mà Giê-su, con Thiên
Chúa, đã được rửa tội trên đó. [Người Công giáo thời đó tin rằng nước sông Jordan
mà Giê-su rửa tội trên đó không có chảy đi đâu hết, vẫn còn nguyên vị ở chỗ cũ.
TCN]. Hơn nữa, trong thế kỷ 11, vì để tự cứu linh hồn, họ có thể ăn cắp bất cứ
cái gì để tránh bị thiêu đốt bởi ngọn lửa dưới hỏa ngục mà các linh mục đã bảo
họ là đã liếm mỗi bước chân của họ (To save his soul, the man of 11th-century
Europe would have stolen anything to avoid the hot flames of Hell which, the
priests had told him, licked his legs at every step). Trong nhiều tháng tiếp
theo, giáo hoàng đích thân cổ động và ra lệnh cho các giám mục, linh mục trong
các giáo xứ địa phương ở Âu Châu cũng phải cổ động cho cuộc Thập Ác Chinh này.
Giáo dân khắp nơi reo hò cuồng nhiệt: “Thiên
Chúa muốn thế”
(Deus Vult = God wills it). Rất nhiều kẻ trộm cướp, sát nhân được thoát khỏi
vòng lao lý với điều kiện là chuộc tội bằng cách làm đổ máu dân ngoại đạo (Many
thieves and murderers who escaped block and gallows only on condition that they
redeemed themselves by spilling heathen blood).
Trên
đây chỉ là vài nét về những cuộc Thập Ác Chinh của Công Giáo La Mã. Trước những
sự thật lịch sử đen tối, bạo tàn của giáo hội Công Giáo mà chính giáo hoàng
John Paul II ngày nay và tòa thánh Vatican đã thú nhận, tôi xin đặt một câu hỏi
cho các tín đồ Công giáo Việt Nam: Có thật là quý vị đang ở trong một “hội
thánh” hay không? Và quý vị có tin rằng cái lịch sử đẫm máu của “hội thánh”
Công giáo kéo dài suốt 2000 năm hoàn toàn không dính líu gì đến niềm tin của
quý vị không? Muốn trả lời câu hỏi này, quý vị cần biết rõ:
Thật
ra, những cuộc Thập Ác Chinh của Công giáo không chỉ có mục đích giết dân Ả Rập
mà còn giết những người Do Thái và giết luôn cả những người Ki Tô giáo khác
không có cùng quan niệm tôn giáo với Công giáo, như chúng ta đã thấy trong cuộc
Thập Ác Chinh Albigense mô tả ở trên. Các cuộc Thập Ác Chinh của Công giáo đã
nhận chìm Âu Châu trong vòng chiến tranh tàn sát suốt hai thế kỷ 11 và 12, dài
gần 200 năm.
Nhưng,
ngoài sách lược tiêu diệt văn hóa nhân loại và các cuộc Thập Ác Chinh, lịch sử
Công giáo La Mã còn một vết nhơ vĩ đại khác, đó là những Tòa Án xử những người
Dị Giáo (khác đạo) hay những người mà Giáo hội kết tội là lạc đạo, nghĩa là
không công nhận quyền lực của Giáo hoàng và của hàng giáo phẩm, những người Do
Thái và cả những người theo Ki Tô Giáo nhưng không cùng tín ngưỡng với Công
Giáo. Những tòa án xử dị giáo này kéo dài hơn 500 năm và đã làm cho trên 11
triệu người chết vì tra tấn bởi những hình cụ khủng khiếp nhất, phát minh bởi
những tín đồ Công giáo, vì thiêu sống v...v... (Zindler, p. 183: The Roman
Catholic Church killed over 11 million people in the course of the
Inquisition)) Tôi sẽ đi vào chi tiết của những hành dộng dã man tàn bạo nhân
danh Chúa của các tòa án xử dị giáo của Công giáo trong một phần sau, qua một
số tài liệu lịch sử.
______________________________________________________________________________
1.
In summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity
in both the Old World and the New was due in
large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history,
from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition,
and repression of other cultures throughout the world, Christianity has
demonstrated its destructive antihuman values.
2.
When religion was all-powerful in Europe, it
produced the epic bloodbath of the Crusades, the torture chambers of the
Inquisition, mass extermination of “heretics”, hundred of massacres of Jews,
and 300 years of witch-burning.
“The
Age of Faith” was an age of holy slaughter. When religion gradually ceased to
control daily life, the concept of human rights and personal freedom took
roots.
...In
reality, the Crusades were a sickening nightmare of slaughter, rape, looting,
and chaos – mixed with belief in magic.
3.
But as we read more about the crusades this vision tarnishes; enquiry hardly
bears out the truth for which we had hoped. Crusades and crusaders are seen to
be different from what we had imagined, and finally we are led to agree with
Sir Steven Runciman's masterly summing-up in The Kingdom of Acre: "Faith
without wisdom is a dangerous thing... In the long sequence of interaction and
fusion between Orient and Occident, out of which our civilization has grown,
the Crusades were a tragic and destructive episode...There was so much courage
and so little honour, so much devotion and so little understanding. High ideals
were besmirched by cruelty and greed, enterprise and endurance by a blind and
narrow self-righteousness; and the Holy War itself was nothing more than a long
act of intolerance in the name of God.
4.
The Deutoronomist’s philosophy, that killing the adherents of every mythology
but one’s own in order to protect believers from competing doctrines was a
godly and laudable act, was in medieval times carried to its logical conclusion
by the Christians who, over the course of several centuries, dutifully
massacred between 30 and 50 million enemies of the various Christian gods in
such events as the Crusades, the Inquisition, the Thirty Years War, and various
minor atrocities.
5.
In the days of ignorance there had been an extraordinary willingness to believe
the Catholic priesthood good and wise. Relatively it was better and wiser in
those days.
The
beginning of the Crusades displays all Europe
saturated by a naive Christianity, and ready to follow the leading of the pope
trustfully and simply.
6.
Why did they go? They lived in a society very different from ours. It was a
society of believers, whose faith was reinforced by a view of nature and the
universe which we now know to have been wrong but which was at least coherent
and in accord with their experience.
The
shocking acts of cruelty – the persecution of defenceless Jews in the “First
Holocaust” – were perpetrated by men whose minds were conditioned by vendettas.
They got the Church’s message that fighting infidels expressed love of God so
wrong that the Crusade became for them an act of vengeance against those they
accused of “dishonoring” Christ.
7.
The First Crusade was launched by Pope Urban II. He fanned the flames of
righteous hatred by granting a plenary indulgence – the total remission of
punishment due to past sins – to anyone who went to kill for the greater honor
and glory of God. In other words, if the crusader was killed, he was guaranteed
immediate admission to heaven.
8.
A plenary indulgence remitting all punishments due to sin was offered to those
who should fall in the war. Serfs were allowed to leave the soil to which they
had been bound; citizens were exempted from taxes; debtors enjoyed a moratotium
on interest; prisoners were freed, and sentences of death were commuted, by a
bold extension of papal authority, to life service in Palestine. Thousands of vagrants joined in
the sacred tramp.
9.
Pope Urban II launched the First Crusade in 1095 to wrest the Holy
Land from infidels. “Deus Vult” (Gos wills it) became the rallying
cry. Around Europe, masses of zealots swarmed into mob-type armies led by
charismatic priest, Peter the Hermit, who displayed a letter he said was witten to him by God and
delivered to him by Jesus as his credentials for leadership. Other thousands
followed a priest called Walter the Penniless.
In
the Rhine Valley of Germany, one throng of crusaders followed a goose they
thought had been enchanted by God to be their guide. This group joined the army
of Emich of Leisingen, a leader who said a a cross miraculously had appeared on
his chest as a holy sign. Emich’s multitude decided that, before marching 2000
miles to kill God’s enemies in Israel,
their first religious duty was to slay “the infidels among us”, the Jews of
Mainz, Worms,
and other German cities. They swept in unstoppable waves through Jewish
quarters, chopping and burning thousands of defenseless men, women, and
children. Many Jews, trapped and doomed in barricaded quarters, tearfully
killed their children and themselves before the mob broke in.
Similar
hordes led by priests Wolkmar and Gottschalk likewise massacred Jews of Prague and Regensburg,
Bavaria. Occasionally, victims
were given a last-minute opportunity, at swordpoint, to save their lives by
converting to Christianity.
As
the various peasant armies moved through Christian Hungary, Yugoslavia, and Bulgaria, they pillaged the
countryside for food, provoking battles with local peoples and armies. In one
clash, Peter the Hermit’s army killed 4000 Christian residents of Zemun, Yugoslavia,
then burned nearby Belgrade.
In tuen, thousands of crusaders died in confused fighting in Bulgaria. Only
a fraction of the peasant mobs finally reached Muslim Turkey, where they soon
were exterminated by Turkish armies.
Organized
regiments of Christian knights followed the rabble, bringing professionalism to
the Crusade. Accompanying bishops blessed their atrocities. The advancing
legions decapitated Muslim and carried the heads as trophies. During three
sieges – at Nicea, Antioch, and Tyre – crusaders
catapulted Muslim heads into the surrounded cities to demoralize defenders.
After a victory on the Syrian coast near Antioch,
Frankish crusaders brought 500 heads back to camp. 300 of them were put on
stakes before the city to torment defenders atop the walls. Chronicler-priests
recorded that a crusader bishop called the impaled heads a joyful spectacle for
the people of God. The other 200 heads were catapulted into Antioch. Inside, Muslim decapitated Antioch’s Christian
residents and catapulated their heads outward in a grotesque crossfire. The
crusaders finally broke through on June 3, 1098, and slaughtered inhabitants.
Then
an arriving Muslim army encircled Antioch
and besieged the former besiegers. The Franks were near starvation when one
Peter Bartholomew announced that a saint had appeared to him in a vision and
disclosed that the lance that pierced Christ’s side at the crucifixion was
buried beneath a Christian church in Antioch.
The Holy Lance was drug up and became a miraculous relic inspiring the
crusaders to derocity. They stormed out of the city in a fanatical onslaught
that sent the Muslim soldiers fleeing in panic, abandoning their camp – anh
their wives. Chronicler Fulcher of Chartres proudly recorded: “When their womwn
were found in the tents, the Franks did nothing evil to them except pierce
their bellies with their lances.”
Marching
on to Jerusalem,
the crusaders soon topped the walls and “purified” the symbolic city by
slaughtering virtually every resident. Jews who took shelter in their synagogue
were burned alive. Corpses were piled in the street. Chronicler Raymond of
Aguilers recoreded:
“Wonderful
things were to be seen. Numbers of the Sacarens were beheaded…Others were shot
with arrows, or forced to jump from the towers; others were tortured for
several days, then burned in flames. In the streets were seen piles of heads
and hands and feet. One rode about everywhere amide the corpes of men and
horses…
In
the temple of Solomon, the horses waded in blood up to
their knees, nay, up to the bridle. It was a just and marvelous judment of God,
that this place should be filled with the blood of the unbelievers.”
During
the subsequent two centuries, Muslim recaptures of portions of the Holy Land caused seven other Christian crusades. Most of
these expeditions began, as the first, with massacres of Jews at home.
In
the Third Crusade, after Richard the Lion-Hearted captured Acre
in 1191, he ordered 3000 captures – many of them women and children – taken
outside the city and massacred. The corpses were cut open in a search for
swallowed gems. Bishops intone blessings. Chronicler Ambroise wrote: “ They
were slaughtered everyone. For this be the Creator blessed!” Infidel lives were
no consequence. As St. Bernard of Claivaux had
declared in launching the Second Crusade: “The Christian glories in the death
of a pagan, because thereby Christ is glorified.”
In
the Fourth Crusade, the armies became diverted and sacked the Christian cities
of Constantinople and Zara. The Children’s
crusade in 1212 was a tragedy based on the mistaken belief that God would
empower innocent Christian tots to overwhelm Muslim armies. Most of the
children perished without reaching the Holy Land.
Finally,
it all came to an end in 1291 when Muslim recaptured the last Christian
stronghold, Acre, and slaughtered its garrison
in retaliation for Richard’s massacre a century earlier. The Holy
Land was back in Muslim hands. Two centuries of death and
destruction had been for nothing.
10.
Whether the Holy Lance was genuine or a planted fake wasn’t questioned by the
crusade’s chronicler-priests. Christendom was obsessed with finding and
worshiping sacred relics, alleged evidence from Bible stories. Fragments of “the
true cross”, pieces of saints’ bodies, still wet tears shed by Jesus, barbs
from the Crown of Thorns, Mary’s undergarments – such were treasured in jeweled
cases in every major church. A ruler of Saxony
proudly possessed 17,000 relics, including a branch from Moses’s burning bush
and a feather from the wings of angel Gabriel. Canterbury Cathedraldisplayed
part of the clay left over after God fashioned Adam. Historian Charles Mackay
said Spanish churches had six or seven thighbones of the virgin Mary, and others
had enough of St. Peter’s toenails to fill a sack. Voltaire noted that six
sacred foreskins were snipped from Jesus at his circumcision; later
rechearchers counted fifteen.
11.
In 1209 an army of some thirty thousand knights and foot soldiers from northern
Europe descended like a whirlwind on the Languedoc
- the mountainous northeastern foothills of the Pyrenees in what is now
southern France.
In the ensuing war the whole territory was ravaged, crops were destroyed, towns
and cities were razed, a whole population was put to the sword. This
extermination occurred on so vast, so terrible scale that it may well
constitute the first case of "genocide" in modern Europe
history. In the town of Béziers
alone, for example, at least fifteen thousand men, women, and children were
slaughtered wholesale - many of them in the sanctuary of the church itself.
When an officer inquired the Pope's representative how he might distinguish
heretics from true believers, the reply was, "Kill them all. God will
recognize His own.".. The same papal representative, writing to Innocent
III in Rome,
announced with proud that "neither age nor sex nor status was
spared."
After
Béziers the invading army swept through the whole of Languedoc. Perpignan
fell, Narbonne fell, Carcassonne
fell, Toulouse
fell. And wherever the victors passed, they left a trail of blood, death, and
carnage in their wake. This war, which lasted for forty years, is now known as
the "Albigensian Crusade." It was a crusade in the true sense of the
word. It had been called by the Pope himself. Its participants wore a cross on
their tunics, like crusaders in Palestine.
And the rewards were the same as they were for crusaders in the Holy Land - remission of sins, an expiation of penances,
an assured place in Heaven, and all the booty one could plunder.
12.
The basic Catholic claims haver never changed one single iota. The Catholic
Church’s insistence about her own uniqueness has remained as granically firm
now, as it has always been. These are the same claims which produced the
Inquisition, Cratia and the Catholic Dictatorship in Vietnam.
If
the past be an indication of the shape of things to come then, given the right
opportunities and appropriate political climate, New Inquisition, New Croatia
and New Vietnams will be created again and again. When, where and how, only the
future can tell.
13.
In 1212 an event took place which has no resemblance to any other in world
history: the children of France
and Germany
went on a crusade, ill-prepared, unarmed and with nothing but their innocent
integrity to aid them.
King
Philip of France was at St. Denis when a twelve-year-old sheperd boy, Stephen
of Cloyes, near Orleans, came to him with a letter which the peasant lad said
had come from Christ himself, bidding him organize a crusade to march on
Jerusalem... The French king ordered the boy to return to his father's house;
but Stephen was under the spell of religious mania. He even dared to disobey
his king, announcing that, in a vision, Christ had promised that the sea would
dry up and allow Stephen, and whoever followed him, to walk dry-shod to Jerusalem, just as the Red Sea
had opened for that other shepherd, Moses.
Certain
clerics were appalled by the simple lad's blasphemy - but Innocent III,
curiously, announced that "the very children put us to shame," and,
undoubtedly, Stephen had a most bewildering power of persuation for one so
young and unlettered. Children from many parts of France flocked round him, carrying
banners bearing the sign of Oriflamme. By June, 1212, at the meeting place,
Vendôme, it is estimated that 30,000 young people had assembled for this
pathetic march to the Holy Land, without maps
and even without food supplies. They were about to parcipate in what can only
be called a pathetic fact of faith.
How
so many children evaded the prohibition of their parents cannot be known:
perhaps the parents, hearing of the Pope's admiration, were afraid to contest
papal approval; perhaps there was little parental authority exertable in those
areas where the fathers themselves were away with Boniface and Dandolo; and
perhaps the hypnotic power of Stephen's words had transported these boys and
girls in such a way that they were invincibly deaf to any remonstrance. At any
rate, they set off that summer, joined by many adults hangers-on, including
priests who found themselves caught up by this infectious ecstasy, and marched
through Tours and Lyons
down to Marseilles,
finding food and shelter where they could.
But
the summer of 1212 had been unusually hot, graincrops had not thrived, and food
and water were scarce because of the drought. Many of the children died by the
wayside, while others turned back and tried to find their way home once more.
When the remainder at last reached Marseilles
they found to their great disappointment that the sea did not dry up as the
shepherd-lad Stephen had promised, to let them walk to the Holy
Land.
After
a few days of misery in the port, they were approched by two unscrupulous
merchants.. These men, called Hugh the Iron and William the Pig, offered to
transport the horde of children to Palestine
in seven ships, free of all charge.
Stephen
of Cloyes saw in this offer the hand of God, who works in a mysterious way, and
accepted gladly...
...The
ships sailed on, but now southwards and not towards the Holy
Land. Their destination was the Saracen port
of Bougie, in Algeria, where
all the French children were sold into slavery.
...It
is alleged that of the 30,000 children who set forth from Vendôme but one, a
young priest, ever returned to France
- and that only after 18 years of slavery.
This
crusading fever spread among the German children, who were excited by the
preaching of a boy named Nicholas Nicholas told the same story of the sea
opening to let the faithful walk dry-shod to Jerusalem. His estimated "army" was
of 20,000 children and hangers-on, good and bad. This ragged horde struggled
over the Alps and, sadly depleted by death and desertions, at last got as far
as Genoa. Here
they were turned away from the city walls by a governor who would not tolerate
such a hungry and sickly rabble. Then, like creatures in a dream of death, they
shuffled on southwards, their visions of relieving the Holy City
forgotten in their hunger and agony.
..
"The very children put us to shame," had said Pope Innocent III. He
spoke truly, through perhaps in a different sense from his intention. The shame
was on the Pope himself for not forbidding this cruel wastage; on the parents
for letting their children go; and on the peasants who denied them food and
shelter all along the route, or who took them in only to profit by their slave
labour. It is estimated that of the 20,000 German children who set out to save
Christendom not more than 2,000 ever reached their home again. In this they
were more fortunate than their French counterpart.
14.
The more I reflect on the matter, all nine crusades were Children's Crusades.
All those simple peasant soldiers were as ignorant as children, blindly
following the exhortations of the popes to kill those Arabs who were defending
their land.
3.3 NÚI TỘI ÁC THỨ BA CỦA CÔNG GIÁO:
NHỮNG TÒA HÌNH ÁN XỬ DỊ GIÁO (The
Inquisition)
Trong
thiên niên kỷ thứ nhất của giáo hội Công giáo, sự giết chóc những người lạc đạo
tương đối hiếm. Năm 385 tại Trier,
Đức quốc, các giám mục lên án tử hình Priscillian và những người theo
Priscillian vì tội nghi ngờ thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi và sự sống lại của Giê-su
(Bishops put to death Priscillian and his followers for doubting the Trinity
and the Resurrection). Năm 415, tại Alexandria, Nữ khoa học gia danh tiếng
Hypatia, giám đốc thư viện Alexandria, bị các linh mục và các đệ tử của thánh
Cyril đánh chết vì những tư tưởng khoa học của Hypatia không phù hợp với Thánh
Kinh, tương tự như trường hợp của giáo hội Công giáo đối với Galilei sau này.
Tại Constantinople vào khoảng năm 550, Hoàng đế Công giáo Justinian giết rất
nhiều người vì không theo đúng giáo lý Công giáo để áp đặt giáo lý chính thống
Công giáo trên quần chúng.
Sang
thiên niên kỷ thứ hai, Hoàng đế Công giáo Robert the Pious thiêu sống 13 người
“lạc đạo” ở Orleans
năm 1022. Năm 1051, trong cộng đồng Công giáo ở Goslar, Đức quốc, một số người
vì một niềm tin nào đó, không chịu giết gà (unwilling to kill chickens), bị kết
tội “lạc đạo” và bị treo cổ (hanged). Năm 1141, linh mục Peter Alebard bị lên
án phải tù chung thân vì ông ta đã liệt kê những mâu thuẫn của giáo hội Công
giáo trong cuốn sách nhan đề “Yes and
No”.
Giáo
hội Công giáo cũng còn giết nhiều tín đồ Ki Tô khác không theo đúng giáo luật
của Công giáo. Thí dụ trường hợp Peter Waldo ở Lyon,
một tín đồ Công giáo thường dân giảng đạo ngoài đường phố. Giáo hội Công giáo
ra luật chỉ có linh mục mới có quyền giảng đạo. Do đó những người theo Waldo,
Waldensians, đều bị coi như là lạc đạo và bị tuyệt thông, và trong cuộc Thập Ác
Chinh Albigense, những người này cũng bị tàn sát hoặc thiêu sống trong vùng
Savoy, Pháp quốc. Một trường hợp khác là nhà thần học Pháp Almaric. Ông này rao
giảng là mọi người đều có khả năng trở nên thần thánh (all people are
potentially divine), và những lễ tiết trong giáo hội là không cần thiết (church
rites aren’t needed). Sau khi ông ta chết, xác ông ta bị khai quật lên và đem
đi thiêu, những người theo ông bị thiêu sống (After his death, his followers
were burned alive as heretics, and his body was dug up and burned).
Nhiều
nhóm “lạc đạo” khác cũng bị Công giáo tiêu diệt. Giáo hoàng và các Thánh trong
Công giáo chủ trương giết người lạc đạo. Họ viện dẫn Cựu Ước để biện minh cho
các cuộc tàn sát vì Cựu Ước dạy rằng: Kẻ
nào phỉ báng tên Chúa đều phải bị giết (He who blasphemes the name of the Lord
shall be put to death). Thánh Thomas Aquinas tuyên bố: “Nếu những kẻ bất lương đáng tội chết, thì những kẻ
lạc đạo còn đáng bị giết hơn nữa” (St. Thomas Aquinas declared: “If
malefactors are justly doomed to death, much more may heretics be justly
slain.”)
Nghiên
cứu về các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, tất cả các nhà nghiên cứu đều đồng ý, đó là
một trong nhiều vết nhơ không sao gột sạch trong lịch sử Giáo hội Công giáo,
tuy rằng có vài nhà Thần học Công giáo đã đưa ra vài lý luận để bào chữa cho
những hành động tàn bạo của Giáo hội, thí dụ như, đó là hành động của những
người cuồng nhiệt tôn giáo, tin rằng mình đã làm theo ý Chúa, hoặc các Tòa Hình
Án Xử Dị Giáo chỉ có mục đích cứu vớt linh hồn những người lạc đạo, lẽ dĩ
nhiên, cứu vớt bằng cách tra tấn và thiêu sống họ.
Những
lời bào chữa như trên chỉ có mục đích lạc dẫn đám tín đồ kém hiểu biết, vì các
chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo đã chứng minh rằng, sự thiết lập các
Tòa Hình Án Xử Dị Giáo giáo bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân thế tục như: bảo vệ
cấu trúc quyền lực độc tài của chế độ giáo hoàng, vơ vét của cải, tài nguyên
v...v...
Thật
vậy, trong cuốn Những Tòa Hình Án Xử
Dị Giáo Tây Ba Nha
(The Spanish Inquisition, Barnes & Nobles Books, New York, 1994, p.18) Jean
Plaidy viết như sau:
"Đó là lời
bào chữa nghe có vẻ hợp lý, nhưng chúng ta phải nhớ rằng, chính sự sợ hãi những
người dị giáo đã đưa đến sự thiết lập những tòa hình án xử dị giáo; và những
nạn nhân phần lớn là những người giầu có, của cải của họ rất đáng để tịch thu,
còn số ít là những người nghèo không có của cải." 1
Nhưng
tại sao Giáo hội Công giáo lại sợ những người dị giáo? Lý do chính là để bảo vệ
quyền lực của Giáo hội trước những tư tưởng khai phóng, khao khát tự do của
những người mà Giáo hội gọi là "lạc đạo". Quyền lực của Giáo hội nằm
trong những giáo điều mà giáo hội đưa ra để nắm giữ cả phần hồn lẫn phần xác
của đám tín đồ kém hiểu biết. Nếu những giáo điều này trở thành phi lý trước
những tư tưởng khai phóng, tự do v..v.. thì giáo hội sẽ mất đi quyền lực. Gần đây,
tuy sợ hãi trước sự bành trướng một cách hòa bình của Phật Giáo và Hồi Giáo
trên khắp thế giới, nhưng vì Giáo hội Công giáo không còn quyền lực của thời
Trung Cổ ở Âu Châu để tra tấn và thiêu sống những người "dị giáo"
nữa, nên Giáo Hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó Giáo hoàng xuyên tạc và hạ thấp Phật
Giáo cũng như vài tôn giáo khác. Hành động này đã bị cả thế giới (trừ đám tín
đồ có đầu óc thời Trung Cổ) lên án và đại diện của Tòa Thánh đã phải xin lỗi
Phật Giáo. Nhưng hành động này cũng chứng tỏ một sự sợ hãi và thiếu tự tin của
Giáo hội Công giáo La Mã, không còn khả năng thuyết phục nhân loại bằng những
giáo lý hoang đường, nên phải dùng đến hạ sách là xuyên tạc và hạ thấp các tôn
giáo khác. Những ngôn từ thiếu văn hóa của John Paul II phê bình các nhà truyền
giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là "Những
con chó sói đói mồi" và của Hồng Y Ratzinger, nay đã là Giáo hoàng, nguyên là
phụ tá thân cận nhất của John Paul II và là người đứng đầu Cơ Quan Truyền Bá
Đức Tin, biến thể của Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo, cũng phê bình
Phật Giáo là một tôn giáo thuộc loại Tự Thỏa Dâm (Auto Eroticism), chứng tỏ sự
sợ hãi nói trên nhưng cũng đồng thời cho chúng ta thấy thực chất vô đạo đức tôn
giáo của những người cầm đầu Giáo Hội Công giáo La Mã ngày nay. Buồn thay,
những người Công giáo Việt Nam
vẫn gọi những kẻ vô đạo đức tôn giáo như trên là “Đức Thánh Cha”.
Sự
sợ hãi những tư tưởng khai phóng của Giáo hội Công giáo được học giả Công giáo
Joseph D. Daleiden phân tích như sau trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng: Một Sự Định Giá Phê Bình Về Di
Sản Do Thái-Ki Tô
(The Final Superstition, A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy,
Prometheus Books, 1994), trg. 61:
"Với sự
tăng trưởng về kiến thức và về ý thức phán đoán, lòng khao khát có thêm tự do
là điều không thể tránh được. Cả hai chế độ Giáo Hoàng và chế độ quân chủ ở Âu
Châu đều nhận biết sự đe dọa trầm trọng này. Cho nên chúng ta không lạ gì khi
hai chế độ trên đã mở một cuộc chiến toàn diện để tiêu diệt những người tranh đấu
cho sự giải phóng nhân loại ra khỏi những sự cùm kẹp song sinh của Vua chúa và
Giáo hoàng. Đó là mục đích thực sự của những tòa hình án xử dị giáo." 2
Trên
đây chỉ là vài nét đại cương về nguyên nhân thiết lập các Tòa Hình Án Xử Dị
Giáo của Giáo hội Công giáo La Mã. Thực chất của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo
này ra sao, chúng ta hãy nghe lời mô tả của một nhà Thần học Ki Tô Giáo, Mục sư
Ernie Bringas, trong cuốn Theo Đúng
Sách Viết: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi Quyền Lực Thánh Kinh (Going By The Book:
Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub. Co., 1996), trg 37, và đây chỉ là một phần nhỏ sự thực về
bản chất của những tòa hình án xử dị giáo:
"Những
người bị kết án là dị giáo trước hết bị bắt giữ và cô lập với thế giới bên
ngoài. Họ được coi là có tội ngay từ lúc khởi đầu, và bắt các tội nhân thú nhận
tội lỗi được coi như là nhiệm vụ mà Thượng đế trao cho phán quan. Người ta tin
rằng, chỉ có cách này linh hồn bị cáo mới được cứu vớt khỏi nanh vuốt của quỷ.
Bị cáo phải dựa vào chính khả năng của mình, không được phép có luật sư biện
hộ.
Ngược lại, cơ
quan truy tố được phép đưa ra bất cứ số nhân chứng nào, gồm cả thân nhân của bị
cáo. Những lời chứng và nghe đồn của ngay cả những nhân chứng không đáng tin
cậy nhất, gồm cả trẻ con, đều được nhận như là những bằng chứng xác định sự
phạm tội. Bị cáo không được phép chất vấn các nhân chứng hoặc cũng không biết
họ là ai. Tuy nhiên, bị cáo được quyền tự biện.
Không lấy gì
làm ngạc nhiên, tra tấn là phương pháp nhanh nhất và hữu hiệu nhất để ép nạn
nhân thú tội. Mới đầu, bị cáo được kéo vào phòng tra tấn và chỉ cho xem những
hình cụ dùng để tra tấn. Nếu họ không nhận cái tội mà người ta gán cho họ, họ
sẽ bị tra tấn từ từ với cường độ tra tấn tăng dần. Những phiên tra tấn này thường
kéo dài từ hai tới bốn tiếng đồng hồ, thân thể các nạn nhân bị xâm phạm và phá
hủy.
Thường thì
những hình cụ tra tấn dùng trong các cuộc tra hỏi này trước hết được rảy nước
Thánh (nước đã được một linh mục làm phúc). Trong những hình cụ tra tấn có:
CÁI KẸP NGÓN TAY. Ngón tay của bị cáo bị đặt trong cái kẹp có đinh
vít. Đinh vít được quay để kẹp chặt ngón tay dần dần cho tới khi máu phọt ra và
xương ngón tay bị nghiền nát.
ĐÔI ỦNG SẮT.
Cái hình cụ hữu hiệu này dùng để nghiền nát xương ống chân.
CÁI
GIÁ CĂNG. Nạn nhân bị căng trên một khung hình tam giác, chân tay bị buộc chặt
để không cử động được. Cổ tay và cổ chân bị cột vào một cái đinh vít căng. Khi
vặn đinh vít, chân tay nạn nhân bị căng ra một cách vô cùng đau đớn cho tới khi
cổ tay và cổ chân bị kéo ra khỏi những khớp xương tương ứng.
(Mục
sư Bringas còn tả thêm 2 hình cụ tra tấn nữa nhưng vì quá độc ác nên tôi không
muốn dịch. Hai hình cụ đó là: CÁI GIÁ CĂNG THẲNG ĐỨNG (The Vertical Rack) và
HÌNH CỤ TRA TẤN BẰNG NƯỚC (Water Torture). Tuy nhiên, trong phần trích dẫn bằng
tiếng Anh ở cuối bài tôi xin để nguyên lời mô tả những hình cụ này để độc giả
tham khảo. TCN).
...Những phương
pháp độc ác và tàn nhẫn dùng để trừng phạt những người bị kết án là dị giáo
chứng tỏ chiều sâu của sự rồ dại và lạc dẫn sự say mê tôn giáo gây ra bởi những
người tự cho là làm theo ý Chúa." 3
Chúng
ta nên để ý rằng, trên đây nhà Thần học Ki Tô Ernie Bringas chỉ mô tả 5 hình cụ
thường dùng để tra tấn những người dị giáo trong số hơn 40 hình cụ, được phát
minh bởi những người con Chúa thường được rao giảng là Chúa dạy phải thương yêu
kẻ thù, trong đó có những hình cụ tra tấn một cách tàn ác và dã man hơn những
hình cụ mô tả ở trên. Độc giả nào tò mò muốn thấy tận mắt một số những hình cụ
này thì tôi xin mời họ hãy đến thăm một bảo tàng viện có tên là "Medieval
Dungeon" ở trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, thành phố San
Francisco, Cali. Trong bảo tàng viện này có trưng bày hơn 40 hình cụ mà các tòa
hình án dùng để tra tấn những người bị tố cáo là dị giáo. Ở ngoài cửa bảo tàng
viện có đề:
"Trưng bày
hơn 40 hình cụ man rợ để tra tấn và hủy diệt con người trong thời đại Trung Cổ
ở Âu Châu. Đằng sau những cánh cửa này là sự khủng khiếp thực sự của thời đại
Trung Cổ ở Âu Châu. Những ngày đen tối nhất của cái quá khứ nhơ nhớp của họ."
(More
than 40 barbaric exhibitions of torture and annhiliation from European Medieval
days. Beyond these doors lies the true horror of the European Medieval days.
The darkest days of its sordid past.)
Ngoài
ra, Linh Mục Joseph Dunn cũng viết trong cuốn Đám Tín Đồ Công giáo Chúng Tôi (The Rest of Us Catholics, Templegate
Publishers, 1994), trg. 184, như sau:
"Có một
cuộc triển lãm thường xuyên những hình cụ tra tấn tại Amsterdam - Đã một lần tôi đặc biệt tới xem
cuộc triển lãm này. Tôi nghĩ rằng mọi cá nhân mới tuyển mộ cho Cơ Quan Truyền
Bá Đức Tin (hay
Văn Phòng Thánh, Holy Office, Nguyên là cơ quan chỉ đạo các tòa hình án. TCN) của Hồng Y Ratzinger đều phải đến xem cuộc triển lãm
này và viết một bài nghiên cứu về nó.
Đây là những
hình cụ tra tấn của những tòa hình án xử dị giáo mà Văn Phòng Thánh là cơ quan
thừa kế. Có những hình cụ nghiền nát đầu, nghiền nát ngón tay, giá thang để
căng người, phanh ngực, chẻ đầu gối, hình cụ giống quả lê và làm nó nở ra dần
dần sau khi đâm vào miệng, hậu môn, âm hộ, khuôn người bằng sắt, những cái chĩa
dành cho dị giáo, và những con nhện Tây Ba Nha - kèm theo những bản khắc và tài
liệu chỉ cách những hình cụ này đã được xử dụng như thế nào." 4
Đọc
về những tòa hình án xử dị giáo tôi không tài nào hiểu nổi những hành động dã
man, tồi tệ, và phản lại chính tín ngưỡng của mình, của những tín đồ Công giáo.
Thí dụ: một trong những hình cụ tra tấn được tìm thấy trong nhà tù của Tòa Án
Xử Dị Giáo tại vùng Toledo
có một bức tượng giống hình Mary Đồng Trinh. Phía trước có nhiều đinh và dao
sắc. Những đòn bẩy được vận dụng để cho hai tay bức tượng xiết chặt nạn nhân
dần dần trong khi những đinh và dao sắc xuyên qua thân thể. (Plaidy., 143: One
of the instruments of torture, which was discovered in the prison of the
Inquisition in Toledo
by the invading French, was a statue built to resemble the Virgin Mary. The
front of the statue was covered with sharp nails and knives. Levers were
pulled, and the arms of the statue would embrace its victim who would be
crushed tighter and tighter, while the knives and nails pierced the naked
flesh.). Trong cuốn “Unzipped: The Popes Bare All”, Tiến sĩ Arthur Frederick
Ide mô tả hình cụ tra tấn mang hình Mary như sau, trang 45, theo tài liệu của
Linh Mục Joseph McCabe trong cuốn Lịch Sử Tra Tấn (Austin, 1980): “Một con đường đi thẳng tới Jesus hơn [để hiệp thông với
Chúa] có thể kiếm thấy trong hình cụ
“Bà Đồng Trinh Bằng Sắt” của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo. Bà ta khoác một bộ
áo choàng bằng gỗ và sắt, khi mở ra thì có những hàng mũi nhọn trông như những
răng của cái bừa, dài khoảng 20cm. Nạn nhân đứng trên một cánh cửa ở trên một
hố nước sâu, khi hai cánh của hình cụ mở ra và các mũi nhọn rút ra khỏi thân
người thì cái xác sẽ rơi xuống nước ở hố sâu. NHững mũi nhọn được xếp đặt cẩn
thận để sao cho hai cái xuyên vào hai mắt nạn nhân, những cái khác thì xuyên
qua ngực và bụng.”
(A more direct route to Jesus was found in the “Iron Virgin” of the
Inquisition. She wore a cloak of wood and iron which when opened revealed an
interior lined with spikes shaped like harrow teeth.. The figure stood above a
trapdoor opening into a moat so that when the doors were opened and the spikes
pulled out of the corpse, it would drop into the water below. The spikes were
carefully placed so that two of them would enter the eyes, others into the
chest, and still others into the abdomen.)
Trong
một số sách đã xuất bản, chúng ta cũng có thể thấy những hình ảnh của những
hình cụ tra tấn này, kèm theo lời mô tả cách tra tấn.. Độc giả có thể đọc vài
cuốn điển hình, thí dụ như cuốn Những
Tòa Hình Án Tây-Ban-Nha (The Spanish Inquisition) của Jean Plaidy, hoặc cuốn Vạch Trần Các Giáo Hoàng: Một Khảo Cứu Bộc trực về Vấn
Đề Tình Dục và Đồi Bại Trong Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study
of Sex & Corruption in the Vatican) của Arthur Frederick Ide, và nhất là
tập sử nổi tiếng Lịch Sử Những Tòa
Hình Án Trong Thời Trung Cổ (The History of the Inquisition in the Middle Ages) của
Henry Charles Lea, nếu muốn biết nhiều hơn về những sự dã man tàn bạo của Giáo
hội Công giáo La Mã.
Sau
đây chúng ta hãy đọc vài tài liệu mô tả phần nào chi tiết về những hành động
man rợ, độc ác không thể tưởng tượng được của các con cái Chúa. Đầu tiên là tài
liệu trong cuốn "Các Đại Diện của
Chúa KiTô: Mặt Đen Tối Của Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ:
The Dark Side of the Papacy,Crown Publishers, 1988, trg. 162-166) của Giám Mục
Công giáo Peter de Rosa:
"Khủng bố
thực sự bắt đầu với Gregory IX, lên ngôi giáo hoàng năm 1227.
Hai năm sau,
tại Công Đồng Toulouse ở Languedoc, Gregory ra sắc lệnh giải giao những người
"dị giáo" cho chính quyền dân sự trừng phạt. Ông nói: "Bổn phận
của mọi tín đồ GiaTô là phải truy tố những kẻ dị giáo".
Năm 1232 giáo
hoàng đã đi đến một quyết định: Ông ra chiếu chỉ thành lập Tòa Án xử Dị Giáo.
Những Giám mục thì quá lơ là, thực ra là, họ thiếu thì giờ và khả năng để hoàn
thành công việc một cách chu đáo. Những người dị giáo, nghĩa là những người
chống bất cứ lời tuyên bố nào của giáo hoàng, đều phải giải giao cho chính
quyền dân sự thiêu sống (sau khi bị Tòa Hình Án tra tấn, thẩm vấn và kết tội;
TCN). Nếu họ sám hối họ sẽ bị tù chung
thân. Chưa có giáo hoàng nào dương lên ngọn đuốc khủng bố với sự thích thú hơn.
Tháng 4, 1233,
giáo hoàng chỉ chọn những quan tòa hình án trong dòng Đa Minh (Dominic) và chẳng bao lâu các linh mục dòng này vinh dự được
sự chọn lựa đó. Ngày 27 tháng 7, 1233, là ngày giáo hoàng phê chuẩn bằng bút
đỏ: hai phán quan của tòa hình án làm việc toàn thời gian được bổ nhiệm - Peter
Seila và Wìliam Arnald. Hai ông này là hai người đầu tiên của một đoàn dài
những công tố viên của nhân loại, làm việc một cách thanh thản và không hề thắc
mắc. Khi bức màn hình án được kéo lên, năm 1239, 2 năm trước khi Gregory chết,
linh mục dòng Đa Minh Robert le Bougre đi tới Champagne để điều tra một giám
mục tên là Moranis. Ông giám mục này bị kết tội là để cho những người dị giáo
sống và lan ra trong giáo phận của mình. Ngày 29 tháng 5, le Bougre đưa 180
người, kể cả ông giám mục, lên giàn hỏa thiêu sống.
Đây là sự trở
lại thời man rợ.
Lịch sử không
ủng hộ quan điểm cho rằng giáo hội Công giáo luôn luôn đứng đầu về vấn đề nhân
quyền. Trong thế kỷ 13, giáo hội vẫn còn đưa ra giáo điều như thuở ban đầu: dị
giáo không có một nhân quyền nào. Họ có thể bị tra tấn không chút đắn đo, ngại
ngùng. Giống như những kẻ phản bội quốc gia, họ tự đặt mình ra ngoài sự thương
xót của luật pháp. Họ phải chết.
Trải qua 3 thế
kỷ không có một giáo hoàng nào chống đối cái giáo điều man rợ trên. Do đó, giáo
điều này đã trở thành một phần thường trực trong giáo lý Công giáo. Dựa vào đó,
quyền năng của tòa hình án đã lên tới mức chưa từng thấy. Kết quả là sự đàn áp
toàn diện những người không hề có được một sự bảo vệ nào trước những sự buộc
tội hoặc chỉ bị nghi ngờ là dị giáo.
Tòa hình án
được phép làm bất điều gì. Những phán quan của tòa hình án dòng Đa Minh, được
giáo hoàng bổ nhiệm, họ không ở dưới quyền bất cứ một ai ngoài Thượng đế và
giáo hoàng. Họ đứng ngoài vòng xét xử của các giám mục và luật dân sự. Trong
những quốc gia thuộc quyền giáo hoàng họ chính là luật lệ, vừa đóng vai công tố
viên vừa đóng vai quan tòa xử án. Nguyên lý chỉ đạo của họ là: "Thà giết
oan 100 người vô tội còn hơn là để cho một kẻ dị giáo được tự do."
Họ hoạt động
một cách độc đoán và trong vòng bí mật. Bất cứ người nào hiện diện trong cuộc
tra hỏi - nạn nhân, thư ký, người tra tấn - mà tiết lộ thì sẽ bị lên án mà chỉ
có giáo hoàng mới có thể tha cho. Những quan tòa hình án, giống như giáo hoàng,
được hiểu rằng không thể phạm một lỗi lầm nào và không thể làm sai...
Tra tấn được
dùng thả dàn. Mới một trăm năm trước đây, người ta trưng bầy trong cái nhà ở
góc đường của giáo hoàng cuốn Sổ Đen dùng làm chỉ đạo cho những quan tòa hình
án. Cuốn sổ có đánh số trang này thuộc trách nhiệm của Phán Quan Trưởng Tòa
hình án. Cái tên phổ thông của nó là Cuốn Sổ của Thần Chết. Sau đây là một phần
được trích dẫn từ đó:
"Hoặc bị
cáo thú tội và như vậy là có tội theo sự thú tội của chính hắn, hoặc hắn không
thú tội nhưng vẫn là có tội dựa theo chứng cớ của các nhân chứng. Nếu một người
nhận tất các tội đã gán cho hắn, đương nhiên hắn hoàn toàn có tội; nhưng nếu
hắn chỉ thú có một phần các tội trạng, hắn vẫn phải bị coi như là phạm tất cả
các tội, vì phần mà hắn đã thú tội chứng tỏ rằng hắn có khả năng phạm tất cả
các điểm khác trong bản cáo trạng...
Sự tra tấn thân
xác đã chứng tỏ đó là phương cách có ích và hữu hiệu đưa tới sự sám hối tinh
thần. Cho nên, sự chọn lựa một hình cụ tra tấn thích hợp nhất là trách nhiệm
của quan tòa hình án, ông ta sẽ quyết định dựa trên tuổi tác, phái nam hay nữ,
và sự cường tráng thân thể của tội nhân. Nếu, trong trường hợp đã dùng đủ mọi
cách mà con người xấu số kia vẫn không chịu nhận tội, phải coi hắn như là một
nạn nhân của quỷ; và, như vậy, không được hưởng sự thương xót từ các kẻ tôi tớ
của Thượng đế (các
linh mục xử án), hoặc sự thương hại
hay khoan hồng nào của giáo hội Mẹ Thánh thiện. Hắn là đứa con của sự đày đọa.
Hãy để cho hắn chết rục cùng với những kẻ đã bị đày đọa vĩnh viễn xuống hỏa
ngục."
Thật khó mà có
thể kiếm được một văn kiện nào mà trái với những nguyên tắc công lý tự nhiên
như vậy. Theo cuốn Sổ Đen, một đứa con phải phản bội cha mẹ, một bà mẹ phải phản
bội đứa con. Không làm như vậy là một "tội lỗi đối với Tòa Án Thánh"
và đáng bị tuyệt thông, nghĩa là, không được hưởng các bí tích và, nếu không có
tu chính án, không được lên thiên đàng.
Những ông Tòa
hình án chưa bao giờ thua một vụ nào. Sử liệu cho thấy không có một vụ phán
quyết nào được xem là vô tội. Ngay cả trong trường hợp rất hiếm mà phán quyết
của tòa hình án là Không Đủ Bằng Cớ, thì cũng không ai được công nhận là vô
tội. Nếu bị cáo thực sự không có tội dị giáo cũng không thành vấn đề. Các ông
tòa hình án tin rằng may ra chỉ có một trong trăm ngàn linh hồn thoát được sự
đọa đày mà thôi." 5
Trên
đây, Peter de Rosa chỉ nói là các quan án đạo, thường là linh mục, được quyền
tra tấn thả dàn, nhưng không mô tả những cảnh tra tấn đó như thế nào. Chúng ta
có thể thấy thêm một chút ánh sáng về khía cạnh này qua một đoạn trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh, Một Lịch Sử
Minh Họa Về Sự Điên Rồ Sát Nhân Tôn Giáo (Holy Horrors, An Illustrated History of
Religious Murder and Madness, Prometheus Books, 1990) của James A. Haught,
trang 61-68. Tôi thành thực khuyên những người yếu tim không nên đọc đoạn mô tả
những cách tra tấn này của giáo hội Công giáo thánh thiện:
Những nỗ lực để
tiêu diệt những kẻ lạc đạo đã đưa đến sự thành lập những Tòa Án Xử Dị Giáo Mang
Nhãn Hiệu Thánh (Holy Inquisition), một trong những hành động khủng khiếp siêu
việt của nhân loại. Vào đầu thế kỷ 13, các giám mục địa phương được quyền kiếm
ra, xử án và trừng phạt những kẻ lạc đạo. Khi các giám mục không tỏ ra là hữu hiệu
cho lắm, các quan án đạo của giáo hoàng, thường là các linh mục dòng Đa Minh
(Dominician), được phái từ La Mã đi khắp nơi để thực hiện cuộc tẩy trừ.
Năm
1252, Giáo hoàng Innocent IV cho phép tra tấn, và những phòng xử án đạo trở
thành những nơi khủng bố. Những người bị tố cáo là lạc đạo bị bắt và giam trong
phòng tối, không được phép có gia đình vào thăm, không được quyền biết tên
những người đã tố cáo họ. Nếu họ không nhận tội ngay, những cảnh độc ác không
thể thốt lên lời bắt đầu xẩy ra. Nhà sử học Thụy Sĩ Walter Nigg kể lại:
“Cái kẹp ngón
tay thường là hình cụ được xử dụng đầu tiên: Các ngón tay bị kẹp giữa những cái
kẹp và rồi được vặn xiết lại cho đến khi các ngón tay bị tóe máu ra và cương bị
nghiền nát. Kẻ bị tố cáo có thể bị đặt ngồi trên một chiếc ghế sắt mà mặt ghế
là những đinh sắt nhọn chổng lên và các đinh này có thể được nung nóng đỏ lên
từ phía dưới. Có hình cụ được gọi là đôi ủng (boots) dùng để nghiền nát xương
ống chân. Một hình cụ tra tấn khác được ưa dùng là làm trật các khớp xương của
kẻ lạc đạo trên những giá căng, hay là buộc chân tay, đeo đá nặng vào người,
rồi dùng bánh xe quay, kéo lên hạ xuống. Để cho những kẻ tra tấn khỏi bị phiền
vì những tiếng kêu la, nạn nhân thường bị nhét giẻ vào miệng. Những cuộc tra
tấn kéo dài 3, 4 tiếng đồng hồ là thường. Trong những cuộc tra tấn, các hình cụ
thường được rẩy nước thánh.”
Những nạn nhân
không chỉ bắt buộc phải nhận tội mình là kẻ lạc đạo, mà còn phải tố cáo vợ con,
bạn hữu của mình cũng lạc đạo như mình, do đó những người này cũng phải trải
qua cùng một cảnh như mình. Những người ít tội là những người nhận tội ngay và
chịu hình phạt nhẹ hơn. Những người tội nặng hơn mà sám hối thì sẽ bị tù chung
thân và tài sản bị tịch thu. Những kẻ cứng đầu hơn được mang đi thiêu sống
trong một cuộc lễ diễn hành được gọi là “auto-da fé” (hành động của đức tin).
Một sắc lệnh của Giáo hoàng năm 1231 quy định thiêu sống là hình phạt tiêu
chuẩn. Sự hành hình được thi hành bởi các viên chức dân sự, không phải là linh
mục, để bảo tồn sự thánh thiện của giáo hội [Trong các cuộc thiêu sống, các
linh mục thường đứng giơ cây thập ác trước mặt nạn nhân, một biểu tượng cứu vớt
linh hồn lạc đạo của nạn nhân].
Một số quan án
đạo giết người như vạt cỏ. Robert le Bourge đưa 183 người lên dàn hỏa trong một
tuần lễ. Bernard Gui kết tội 930 người – tịch thu tài sản của tất cả 930 người
– cho 307 người vào tù, và thiêu sống 42. Conrad of Marburg thiêu sống mọi người nào cho mình là
vô tội.
Theo lịch sử,
các cuộc hình án xử dị giáo được chia làm ba đợt: sự tiêu diệt những kẻ lạc đạo
trong thời Trung Cổ, những tòa hình án xử dị giáo Tây Ban Nha vào thế kỷ 15, và
những tòa án xử dị giáo của La Mã, bắt đầu sau cuộc cải cách [trong đó Tin Lành
cũng nhúng tay vào]
Ở Tây Ban Nha,
nhiều ngàn người Do Thái đã cải đạo sang Ki Tô Giáo để tránh tử hình trong
những cuộc tàn sát của người Ki Tô Giáo. Một số người Hồi Giáo cũng vậy. Thuy
nhiên, họ vẫn bị nghi ngờ là không được thành thật khi cải đạo và vẫn bí mật
theo đạo cũ. Năm 1487, Giáo hoàng cho phép Vua Frenidand và Hoàng hậu Isabelle
làm sống lại những tòa hình án xử dị giáo để săn lùng những người “Do Thái bí
mật” và những người “Hồi Giáo bí mật” [Những người bị nghi ngờ là không thành
thật cải đạo sang Ki Tô Giáo]. Linh mục dòng Đa Minh Tomas de Torquemada được
chỉ định là Tổng Phán Quan, và hắn ta trở thành biểu tượng của sự độc ác tôn
giáo. Hàng ngàn nạn nhân kêu la bị tra tấn, và ít nhất là 2000 người bị thiêu
sống.
Thời kỳ xử dị
giáo của La Mã bắt đầu năm 1542 khi Giáo hoàng Paul III muốn tiêu diệt tận gốc
những ảnh hưởng của Tin Lành ở Ý. Dưới triều đại Paul IV, những tòa án xử dị
giáo là một triều đại khủng bố, giết nhiều người “lạc đạo” chỉ vì nghi ngờ.
Trong số những nạn nhân có cả nhà khoa học-triết gia Giordano Bruno, người tin
theo thuyết các hành tinh quay xung quanh mặt trời của Copernicus. Ông ta bị
thiêu sống ở La Mã vào năm 1600.
Những tòa án xử
dị giáo làm tàn lụi nhiều quốc gia trong nhiều thế kỷ. Ở Bồ Đào Nha, tài liệu
ghi lại là 184 người bị thiêu sống. Những tòa án xử dị giáo được những chiến
thắng quân Tây Ban Nha mang tới các thuộc địa Mỹ Châu, để trừng phạt những thổ
dân theo những tôn giáo của họ. Có 879 cuộc xử án những người lạc đạo ở Mexico
vào cuối thế kỷ 16..
Lord Acton, một
tín đồ Công giáo, viết vào cuối thế kỷ 19: “Nguyên tắc của Những Tòa Hình Án Xử
Dị Giáo là giết người.. Những giáo hoàng không chỉ là những tên sát nhân có
hạng, mà còn cho sự giết người là một căn bản hợp pháp của Giáo hội Ki Tô và là
một điều kiện của sự cứu rỗi.” 6
Cuối
cùng trong bài này, vì tôi không thể đưa ra tất cả những tài liệu, là thêm một
tài liệu về các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo của Helen Ellerbe trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo (The Dark Side of
Christian History, Morningstar & Lark, 1995, Chapter VI, pp. 76-92):
Chưa
từng có nỗ lực có tổ chức của một tôn giáo để kiểm soát con người và giam giữ
tâm linh của họ như là những tòa hình án của Ki Tô Giáo. Được phát triển từ
trong khuôn khổ hợp pháp của chính giáo hội, những tòa hình án xử dị giáo toan
tính khủng bố con người để bắt họ vào trong vòng tuân phục giáo hội. Như quan
án đạo (Inquisitor) Francisco Pena phát biểu năm 1578: “Chúng ta phải nhớ rằng
mục đích chính của các cuộc xử án và hành hình không phải là để cứu vớt linh
hồn của kẻ bị cáo buộc mà để cho sự tốt lành công cộng và reo rắc sự sợ hãi cho
những kẻ khác.” Những Tòa Án Xử Dị Giáo đã lấy đi vô số mạng người ở Âu Châu và
trên thế giới khi nó theo gót những giáo sĩ thừa sai đi truyền đạo. Cùng với sự
tàn bạo của những tòa án xử dị giáo, những giáo sĩ cũng đem sự biện minh tôn
giáo (như được viết trong Thánh Kinh) để thực hành chế độ nô lệ.
Cái tinh thần
bất phục trong thời Trung Cổ có vẻ như đã làm cho sự đòi hỏi tuyệt đối tuân
phục của giáo hội trở nên trầm trọng. Cái hiểu về Thiên Chúa của Giáo hội là
cái hiểu duy nhất. Không làm gì có chuyện bàn cãi hay tranh luận. Như quan án
đạo Bernard Gui nói, tín đồ Công giáo không có tranh luận với những kẻ bất tín,
“mà chỉ cần dùng gươm đâm vào bụng chúng cho thật sâu.” Trong một thời mà con
người nẩy nở tâm linh, giáo hội khăng khăng cho rằng giáo hội là con đường duy
nhất mà con người được phép biết về Thiên Chúa. Giáo hoàng Innocent III tuyên
bố rằng: “bất cứ người nào mà toan tính có một quan điểm riêng về Thiên Chúa mà
không đúng theo những tín điều của giáo hội đều phải bị thiêu sống mà không
được thương sót.”..
Giáo hội xử
dụng giáo luật của chính mình để hình thành một cơ quan có thể cưỡng bức con
người phải tuân theo quyền lực của giáo hội. Năm 1231 giáo hoàng Gregory IX
thiếtlập một tòa án riêng biệt, độc lập đối với những giám mục hay các cấp cao
hơn. Những viên chức của tòa án, những quan án đạo, chỉ chịu trách nhiệm trước
giáo hoàng. Luật xử dị giáo của giáo hội thay thế luật truyền thống thường
dùng; “vô tội cho đến khi chứng thực là có tội” bằng luật “có tội cho đến khi
chứng thực là vô tội.” Tuy rằng bề ngoài có vẻ như là một cuộc xử án, phương
thức xử dị giáo khiến cho người bị nghi ngờ lạc đạo không có cách nào có thể
chứng minh mình vô tội; phương thức xử án trên đưa đến kết quả cuộc là kết tội
ngay cả những người chỉ mới là nghi ngờ lạc đạo. Người bị cáo buộc không có
uyền được tham vấn. Không có chi tiết nào được đưa ra về thời gian và nơi chốn
phạm những tội lạc đạo, hoặc những loại lạc đạo nào đã bị nghi ngờ là phạm
phải.
Quan Án Đạo
(The Inquisitor) chủ tọa phương thức xử dị giáo như cả hai: vừa là công tố viên
vừa là quan tòa tuyên án… Một quan án đạo được tuyển chọn căn cứ trên sự nồng
nhiệt truy tố lạc đạo của ông ta. Ông ta và những phụ tá, những liên lạc viên
và mật thám, được quyền mang vũ khí. Và năm 1245, giáo hoàng cho phép các quan
án đạo được tha tội cho những phụ tá của mình trước bất cứ những hành động bạo
lực nào. Điều này khiến cho những tòa án xử dị giáo, vốn đã không chịu dưới
quyền của nền pháp luật thế tục, cũng còn không chịu trách nhiệm ngay cả trước
những tòa án của giới giáo sĩ..
Những quan án
đạo trở nên rất giầu có. Họ nhận hối lộ và tiền hụi hàng năm mà những người
giầu có phải trả để tránh bị tố cáo là lạc đạo. Tòa án xử dị giáo tịch thu tài
sản của nhữngngười bị cho là lạc đạo. Vì các nạn nhân không có cách nào để
chứng tỏ mình vô tội trước tòa nên các quan án đạo không cần chờ đến khi định
tội rồi mới tịch thu tài sản của nạn nhân. Không như luật của La Mã để ra một
phần tài sản cho người thừa kế của người có tội, giáo luật của tòa án xử dị
giáo không để lại chút nào. Giáo hoàng Innocent III đã giải thích là chính
Thiên Chúa đã trừng phạt con cái vì tội lỗi của cha mẹ. Cho nên, trừ khi con
cái đứng ra ngay để tố cáo cha mẹ, chúng không được thừa hưởng chút nào. Những
quan án đạo lên án ngay cả những người lạc đạo đã chết, đôi khi cả tới 70 năm
sau khi chết. Chúng khai quật và hỏa thiêu xương cốt của người mà chúng cho là
lạc đạo và rồi tịch thu mọi tài sản của những người thừa kế..
Những tòa án xử
dị giáo thật tàn nhẫn đối với các nạn nhân của họ. Cùng một người vừa là công tố
viên (người kết tội) vừa là quan tòa (người định tội) quyết định án tội. Năm
1244 Công đồng ở Narbonne ra lệnh rằng khi định tội những người lạc đạo, phải
kết tội luôn người chồng hay người vợ của nạn nhân, hoặc cha mẹ của đứa con, và
không có bản án nào được giảm vì đau ốm hay tuổi tác.
Tuy Giáo hội đã
bắt đầu giết những người lạc đạo vào cuối thế kỷ 4 và sau đó ở Orléan vào năm
1022, lệnh của giáo hoàng năm 1231 quy định những người lạc đạo phải bị thiêu
sống. Thiêu sống con người tránh được đổ máu [nhưng khi tra tấn nạn nhân thì
tha hồ làm đổ máu] Câu trong Phúc Âm Giăng (John) được hiểu để trừng phạt nạn
nhân bằng cách thiêu sống: “Nếu một người không tin vào Ta, nó sẽ bị dẹp đi như
một cành cây, để khô héo; và các người sẽ thu thập nó, ném vào ngọn lửa, và
chúng bị đốt cháy”(John 15: 16).
Cái sắc thái ác
độc nhất của hệ thống xử dị giáo là những cách dùng để bắt buộc nạn nhân phải
thú tội: phòng tra tấn. Tra tấn là hành động hợp pháp của Giáo hội từ năm 1252
khi được giáo hoàng Innocent IV cho phép và kéo dài cho tới năm 1917 khi văn
kiện Codex Juris Canonici (giáo luật về cách xử xét) được thi hành. Innocent IV
cho phép sự xét xử được kéo dài vô hạn để lấy lời thú tội, cho các quan án đạo
tất cả thời gian họ muốn để tra tấn người bị kết tội. Năm 1262 những quan án
đạo và phụ tá của họ được quyền tha tội cho nhau vì những tội ác làm đổ máu của
họ. Họ chỉ cần giải thích là người bị tra tấn chết là vì đã bị quỷ bẻ gãy cổ.
Do đó, được
phép của chính giáo hoàng, những quan án đạo tha hồ nghĩ ra những cách độc ác
và kinh khủng nhất [để tra tấn kẻ lạc đạo]. Mặc những bộ áo chùng thâm và phủ
vải đen trên đầu, các quan án đạo có thể lấy lời thú tội của bất cứ ai. Họ phát
minh ra mọi hình cụ có thể tưởng tượng ra được để gây đau đớn cho nạn nhân bằng
cách từ từ làm trận những khớp xương tr6n người hoặc làm tứ chi tước khỏi thân
thể con người. Trên nhiều hình cụ này được khắc câu “Chỉ Cho Sự Vinh Quang Của
Thiên Chúa”. Giá căng người, bánh xe kéo người lên xuống, tra tấn bằng nước là
những hình cụ thông dụng nhất. Nạn nhân bị thoa mỡ lên người và từ từ nướng
sống. Những lò sát sinh để giết người, biểu tượng ô nhục của Đức Quốc Xã trong
thế kỷ 20, đã được những tòa án xử dị giáo xử dụng trước hết ở Đông Âu. Nạn
nhân bị ném xuống hố sâu có đầy rắn độc và rồi bị chôn sống. Một cảnh tra tấn
ghê rợn là lật úp một cái đĩa chứa đầy chuột trên bụng trần của nạn nhân. Lửa
được đốt từ phía trên làm cho những con chuột hỏang sợ tìm cách chui rúc vào
bụng nạn nhân.
Sự bạo hành nằm
trong niềm tin về một đấng siêu đẳng duy nhất đã đi theo những nhà phiêu lưu và
các nhà truyền giáo trên khắp thế giới. Khi Columbus tới Mỹ năm 1492, hắn ta tưởng lầm đó
là Ấn Độ và gọi các thổ dân là “người Ấn” (Indians). Chính vì mục đích của hắn,
chủ trương cải đạo các thổ dân vào “Đức Tin Thánh” của chúng ta (our Holy
Faith) đã đưa đến sự nô lệ hóa và xuất cảng nhiều ngàn thổ dân Mỹ đi làm nô lệ.
Cách đối xử có tính cách diệt chủng như vậy không phải là vấn đề vì các thổ dân
Mỹ đã được cho cơ hội để sống cuộc sống đời đời trong Ki Tô Giáo.
Những tòa án xử
dị giáo mau chóng theo gót nhửng nhà phiêu lưu và truyền giáo này. Vào khoảng
1570 những tòa hình án xử dị giáo đã thiết lập những tòa độc lập ở Peru và Mexico với mục đích “giải phóng
quốc gia đã bị ô nhiễm bởi những người Do Thái và kẻ dị giáo”. Những thổ dân
không chịu cải đạo vào Ki Tô Giáo đều bị thiêu sống giống như những kẻ lạc đạo.
NHững Tòa Hình Án Xử Dị Giáo lan sang đến cả Goa, Ấn Độ, ở đ1o vào cuối thế kỷ
16, đầu thế kỷ 17, ít nhất là 3800 bị giết.
Dù không có
những tòa án xử dị giáo ở địa phương, cung cách truyền giáo minh họa rõ ràng
niềm tin vào một Thiên Chúa siêu đẳng duy nhất. Nếu hình ảnh của một Thiên Chúa
thờ phụng ở một quốc gia nào mà không phải là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, thì đó
không phải là Thiên Chúa. Những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ở Viễn Đông đã phá
hủy chùa chiền, bắt buộc các học giả phải dấu đi nhưng kinh sách của tôn giáo
họ, và dẹp bỏ những tục lệ cổ truyền.
Những nhà
truyền giáo Ki Tô Giáo thường dự phần vào việc khai thác bóc lột đất đai ở
ngoại quốc một cách vô lương tâm. Nhiều người trở thành nhà truyền giáo để trở
thành giầu có nhanh chóng rồi trở về Âu Châu sống với những lợi nhuận từ những
sự khai thác này. Ở Mễ Tây Cơ, những giáo sĩ dòng Đa Minh, dòng Augustine, dòng
Tên được biết là sở hữu chủ của “những đàn cừu lớn nhất, những vườn mía tốt
nhất, những địa ốc tốt nhất” [Ở Việt Nam, Nhà Chung cũng chiếm hữu nhiều
đất đai và cơ sở kinh doanh nhất, theo Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn “Thập
Giá và Lưỡi Gươm”]. Đặc biệt là ở Nam
Mỹ, Giáo hội hỗ trợ việc nô lệ hóa các thổ dân và cướp đoạt đất đai của thổ
dân. [Chúng
ta hẳn câu nói thời danh của tổng giám mục Desmond Tutu, người đã đoạt giải
Nobel về Hòa Bình năm 1984: “Chúng tôi
có đất đai và họ tới với cuốn Thánh Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn
Thánh Kinh trên tay, nhắm mắt cầu nguyện. Khi chúng tôi mở mắt ra thì chúng tôi
có cuốn Thánh Kinh và họ có tất cả đất đai của chúng tôi.” (We have our lands
and they came with their Bible. We believed in them and we pray with the Bible
in our hands and our eyes closed. When we open our eyes, we have the Bible and
they have our lands] Một sắc lệnh của
giáo hoàng vào năm 1493 cho phép người Ki Tô được khai chiến với bất cứ dân tộc
nào ở Nam
Mỹ từ chối không theo Ki Tô Giáo…
Ki Tô Giáo cũng
ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ. Anh Giáo, vào thế kỷ 18 khẳng định rõ là Ki Tô
Giáo giải tho át con người khỏi sự đầy đọa vĩnh viễn chứ không phải khỏi những
trói buộc của nô lệ.. Tuy nhiên, nô lệ nên cải đạo vào Ki Tô Giáo, vì họ sẽ trở
thành ngoan ngoãn và vâng lời hơn.
Những Tòa Hình
Án Xử Dị Giáo cũng như chế độ nô lệ đều dựa trên cùng một biện minh tôn giáo.
Để giữ niềm tin chính thống của Ki Tô Giáo vào một Thiên Chúa duy nhất và đáng
sợ như là đấng cai trị cao nhất của hệ thống giáo quyền, quyền năng nằm trong
giới có quyền, chứ không nằm trong cá nhân. Vâng lời và tuân phục được đánh giá
cao hơn là tự do và tự quyết. Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo đã thực hiện những
kết quả đen tối của một niềm tin như vậy qua việc cầm tù và giết hại thể xác
cũng như tinh thần của vô số người – và không chỉ trong một thời gian ngắn.
Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo kéo dài qua nhiều thế kỷ và vẫn còn tồn tại ở vài
nơi cho đến năm 1834.
7
Trên
đây chỉ là một số tài liệu lịch sử, lẽ dĩ nhiên không phải là tất cả, về những
Tòa Hình Án Xử Dị Giáo của Giáo hội Công Giáo thánh thiện, tông truyền. Theo
một số trí thức Công Giáo Việt Nam thì rất có thể những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo
đó là cơ quan thực thi "công lý Công giáo", "ý niệm về công
bằng, bác ái, nhân quyền" của Công giáo (theo giáo sư Đỗ Mạnh Tri trong cuốn
Ngón Tay và Mặt Trăng), hoặc đó là "ý
niệm tiến bộ của văn minh toàn thế giới" và "sứ mạng cao cả của Giáo
hội: mang sự thật đến cho nhân loại" của Công giáo (theo Lý Chánh Trung
trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc). Tôi không hiểu tại
sao những bậc trí thức Công Giáo như Đỗ Mạnh Tri hay Lý Chánh Trung có thể trơ
tráo đến độ có thể viết lên những điều hoàn toàn sai với những sự thực về lịch
sử cũng như bản chất của giáo hội Công giáo như vậy. Viết như vậy không hiểu họ
có biết ngượng hay không, ngượng vì chính cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Công
Giáo, hay ngượng vì chính sự ngu dốt của mình đã tin theo những lời lừa bịp của
giáo hội. Thật là khó hiểu, Công giáo đã không từ một hành động tàn ác bất nhân
nào để vinh danh Chúa và Mary Đồng Trinh và làm cả tượng “Đồng Trinh” để tra
tấn và giết hại con người. Làm sao mà Giáo hội có thể gột sạch được những vết
nhơ như thế. Hay là Giáo hội nghĩ rằng, nếu các tín đồ không biết đến những vết
nhơ này thì sẽ không có vết nhơ nào trên khuôn mặt Giáo hội? Tôi không hiểu các
tín đồ Công Giáo Việt Nam, khi đọc những tài liệu về những hành động vô cùng ác
độc của giáo hội Công Giáo đối với con người như trên, sẽ nghĩ sao về cái “giáo
hội thánh thiện” của họ, và họ có còn dám ngửng mặt lên nhìn những người ngoại
đạo và huênh hoang ca tụng Công Giáo láo như Đỗ Mạnh Tri và Lý Chánh Trung như
ở trên hay không?
Về
sau những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo cũng được Tin Lành áp dụng ở khắp nơi mà Tin
Lành nắm quyền, kể cả ở Mỹ, nhưng thường ở mức độ thấp hơn. Qua một số sự kiện
lịch sử kể trên, tôi xin để cho quý độc giả tùy ý nhận định về ảnh hưởng và
thực chất của một tôn giáo thường được rêu rao vào tai con người bằng những
danh từ hoa mỹ như "cao quý, thiên khải, thánh thiện, cứu thế, bác ái,
mang tới "tin mừng", tôn trọng nhân quyền, tự do, duy nhất chân thật
v...v..." Tiếp nối tinh thần của những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo là những
cuộc Săn Lùng Phù Thủy không kém phần dã man của giáo hội Công giáo thánh
thiện, tông truyền. Đây là đề tài của “Núi
Tội Ác Thứ Tư Của Công Giáo” trong loạt bài về “Công Giáo Hắc Sử”.
__________________________________________________
1.
It is a plausible excuse; but we must remember that it was fear of the heretic
which inspired the foundation of the Inquisition; and that its victims were
more likely to be rich men, whose goods were worthy of confiscation, than men
whose wordly goods were few.
2.
With the growth in knowledge and critical thinking, inevitably came the desire
for more freedom. Both the papacy and the monarchies of Europe
recognized this grave threat. It is no wonder, then, that an all-out war was
declared on those who sought to free humankind from the twin shackles of king
and pope. This was the true purpose of the Inquisition.
3.
The accused heretics first were arrested and isolated from the outside world.
They were considered guilty from the outset, and it was regarded as the
God-given obligation of the inquisitor to shake loose confessions. Only in this
way, it was believed, could the accuseds's souls be saved from the clutches of
the devil. Defense lawyers were not allowed; the accused had to rely on his own
resources.
In
contrast, the prosecution was authorized to produce any number of witnesses,
including blood relatives.
Testimony
and hearsay by even the most unreliable witnesses, including children, were
accepted as conclusive evidence of guilt. The accused was not allowed to
challenge witnesses or even know who they were. The accused, however, was
permitted to testify.
Not
surprisingly, torture was the quickest and most effective method of obtaining a
confession. The heretics first were dragged into the torture chamber and shown
all the instruments of torment. If they did not confess their alleged guilt,
torture was applied slowly with increasing intensity. These sessions usually
lasted two to four hours, leaving the victims violated and shattered.
Often
the torture instruments used in these interrogations were first sprinkled with
holy water (water blessed by a priest). These numerous devices included:
THE
THUMBSCREW. The accused's fingers were placed between clamps. The screws were
turned until blood spurted and the bones were crushed.
THE
BOOTS. This effective device was used to crush the shinbones.
THE
RACK. The accused was stretched across a triangle frame, bound hand and foot to
prevent movement. Wrists and ankles were secured by cords affixed to a
jackscrew. When the screw was turned, the limbs were stretched execruciatingly
until the wrists and ankles were pulled from their sockets.
THE
STRAPPADO (Vertical Rack). The accused's hands were tied behind his or her back
and raised by a rope attached to a pulley to the ceiling. The prisoner was then
dropped repeatedly with a jerk to within a few inches of the floor. On
occasion, weights were tied to the victim's feet to increase the shock and agony
of the fall.
THE
TOCA (Water torture). The accused was tied to a rack, the mouth was kept
forcibly open, and a linen cloth put down the throat to conduct water poured
slowly from a vessel. The severity of this torture depended on the amount of
water released.
...The
cruel and heartless methods used to punish persons accused of heresy indicates
the depth of madness and misguided religious passion perpetrated by those who
claimed to be doing God's will.
4.
There is a permanent exhibition of torture instruments in Amsterdam - I once made a special point of
going to see it. I think that every new recruit to Cardinal Ratzinger's
Congregation of the Doctrine of the Faith (or Holy Office) should be required
to visit the exhibition and write a study paper on it.
Here
are the tools of the Inquisitions of which the Holy Office is the heir. There
are headcrushers, thumbscrews, ladder racks, breast rippers, knee splitters,
oral, rectal, and vaginal pears, iron maidens, heretic forks, and Spanish
spiders - with woodcuts, engraving and documents to show how they were used.
5.
The terror began in earnest with Gregory IX, who ascended the papal throne in
the year 1227.
Two
years later, at the Council of Toulouse in Languedoc, Gregory decreed that heretics had
to be handed over to the secular arm for punishment. "It is the duty of
every Catholic," he said, "to persecute heretics."
In
the year 1232 he made his decisive move. He published a Bull establishing the
Inquisition. Bishops were too lax and, in any case, they lacked the time and
talent to do a thorough job. Heretics, that is, all opposed to any papal
pronouncement, were to be handed over to the civil authorities for burning. If
they repented, they were to be imprisoned for life. No pope ever took up the
torch of terror with more enthusiasm.
In
April 1233 he restricted inquisitors to members of the mendicant orders; soon,
the Dominicans had the honor to themselves. The 27th day of July 1233 was a
red-letter day for the pontiff: the first two full-time inquisitors were appointed
- Peter Seila and William Arnald. They were the first in a long line of serene
untroubled persecutors of the human race. As a curtain-raise, in 1239, two
years before Gregory died, the Dominican Robert le Bougre went to Champagne to investigate
a bishop named Moranis. He was accused of allowing heretics to live and spread
in his diocese. On 29 May he sent 180 people, including the bishop, to the
stake.
This
was a return to barbarism. ..
History
does not support the view that the Catholic church has always championed the
rights of man. In the 13th century, it went so far as to teach what the early
church condemned: heretics have no rights. They can be tortured without
scruple. Like traitors to the state, heretics have put themselves outside the
mercy of the law. They must be put to death.
No
one pope for over three centuries opposed this teaching which should therefore
by rights be a permanent part of Catholic doctrine. By means of it, the
Inquisition achieved unprecedented power. The result was wholesale intimidation
of those who had no protection against the charge or even slightest suspicion
of heresy.
To
the medieval Inquisition, everything was permitted. The Dominican Inquisitors,
being the pope's appointees, were subject to no one but God and his Holiness.
They were outside the juridiction of bishops and of civil law. In the Papal States they were a law unto themselves, acting as
prosecutors and judges. Their guiding principle was: "Better for a hundred
innocent people to die than for one heretic to go free."
They
operated arbitrarily and in secrecy. Anyone present at the interrogation -
victim, scribe, executioner - who broke his silence incurred a censure that
only the pope could lift. The inquisitors, like the pope, could make no mistake
and do no wrong...
Torture
was freely used. Only a hundred years ago, there was on display in the pope's
House on the Corner the Black Book, or Libro Nero, for the guidance of
inquisitors.
This manuscript in folio form was the charge of the Grand Inquisitor. Its popular
name was the Book of the Death. This is part of what it said:
Either
the person confesses and he is proved guilty from his own confession, or he
does not confess and is equally guilty on the evidence of witnesses. If a
person confesses the whole of what he is accused of, he is unquestinably guilty
of the whole; but if he confesses only a part, he ought still to be regarded as
guilty of the whole, since what he has confessed proves him to be capable of
guilt as to the other points of the accusation...
Bodily
torture has ever been found the most salutary and efficient means of leading to
spiritual repentance. Therefore, the choice of the most befitting mode of
torture is left to the Judge of the Inquisition, who determines according to
the age, the sex, and the constitution of the party...If, notwithstanding all
the means employed, the unfortunate wretch still denies his guilt, he is to be
considered as a victim of the devil: and, as such, deserves no compassion from
the servants of God, nor the pity and indulgence of Holy Mother Church: he is a
son of perdition. Let him perish among the damned.
It
would be hard to find any document so contrary to the principles of natural
justice. According to the Black Book, a child must betray his parents, a mother
betray her child. Not to do so is a "sin against the Holy Office" and
merits excommunication, that is, exclusion from the sacraments and, if there is
no amendement, exclusion from heaven...
The
inquisitors never lost a single case. There is no record of an acquittal. When,
rarely, the verdict was Not Proven, no one was declared innocent. If the
accused was not actually guilty of heresy, no matter. Inquisitors believe that
only one in every hundred thousand souls would escape damnation anyway.)
6.
Efforts to stamp out heresy led to the establishment of the Holy Inquisition,
one of mankind’s supreme horrors. In the early 1200s, local bishops were
empowered to identify, try, and punish heretics. When the bishops proved
ineffective, traveling papal inquisitors, usually Dominician priests, were sent
from Rome to
conduct the purge.
Pope
Innocent IV authorized torture in 1252, and the Inquisition chambers became
places of terror. Accused heretics were seized and locked in cells, unable to
see their families, unable to know the names of their accusers. If they didn’t
confess quickly, unspeakable cruelties began. Swiss historian Walter Nigg
recounted:
“The
thumbscrew was usually the first to be applied: The fingers were placed in
clamps and the screws turned until the blood spurted out and the bones were
crushed. The defendant might be placed on the iron torture chair, the seat of
which consisted of sharpened iron nails that could be heated red-hot from
below. There were the so called boots, which were employed to crush the
shinbones. Another favorite torture was dislocation of the limbs on the rack or
the wheel on which the heretic, bound hand and foot, was drawn up and down
while the body was weighted with stones. So that the torturers would not be
disturbed by the shrieking of the victim, his mouth was stuffed with cloth.
Three-and-four-hour sessions of torture were nothing unusual. During the
procedure the instruments were frequently sprinkled with holy water.”
The
victim was required not only to confess that he was a heretic, but also to
accuse his children, wife, friends, and others as fellow heretics, so that they
might be subjected to the same process. Minor offenders and those who confessed
immediately received lighter sentences. Serious heretics who repented were given
life imprisonment and their possessions were confiscated. Others were led to
the stake in a procession and church ceremony called the “auto-da-fé” (act of
the faith). A papal statute of 1231 decreed burning as the standard penalty.
The actual executions were performed by civil officers, not priests, as a way
of preserving the church’s sanctity.
Some
inquisitors cut terrible swathes. Robert le Bourge sent 183 to the stake in a
single week. Bernard Gui convicted 930 – confiscating the property of all 930 –
sending 307 to prison, and burning forty-two. Conrad of Marburg burned every
suspect who claimed innocence.
Historically,
the Inquisition is divided into three phases: the medieval extermination of
heretics; the Spanish Inquisition in the 1400s; anf the Roman Inquisition,
which began after the Reformation.
In
Spain,
thousands of Jews had converted to Christianity to escape death in recurring
Christian massacres. So, too, had some Muslims. They were, however, suspected
of being insincere converted clandestinely practicing their old religion. In
1478 the pope authorized King Fernidand and Queen Isabella to revive the
Inquisition to hunt “secret Jews” and their Muslim counterparts. Dominican
friar Tomas de Torquemada was appointed inquisitor general, and he became a
symbol of religious cruelty. Thousands upon thousands of screaming victims were
tortured, and at least 2,000 were burned.
The
Roman period began in 1542 when Pope Paul III sought to eradicate Protestant
influences in Italy.
Under Pope Paul IV, this inquisition is a reign of terror, killing many
“heretics” on mere suspicion. Its victims included scientist-philosopher
Giordano Bruno, who espoused Copernicus’s theory that planets orbit the sun. He
was burned at the stake in 1600 in Rome.
The
Inquisition blighted many lands for centuries. In Portugal, records recount that 184
were burned alive. The Inquisition was brought by Spaniards to the American
colonies, to punish Indians who reverted to native religions. A total of 879
heresy trials were recorded in Mexico
in the late 1500s…
Lord
Acton, himself a Catholic, wrote in the late 1800s: “The principle of the
Inquisition was murderous..The popes were not only murderers in the great
style, but they also made murder a legal basis of the Christian Church and a
condition of salvation.”
7.
There has been no more organized effort by a reeligion to control people and
contain (giam giữ) their spirituality than the Christian Inquisition. Developed
within the Church’s own legal framework, the Inquisition attempted to terrify
people into obedience. As the Inquisitor Francisco Pena stated in 1578, “We
must remember that the main purpose of the trial and execution is not to save
the soul of the accused but to achieve the public good and put fear into
others.” The Inquisition took countless human lives in Europe
and around the world as it followed in the wake of missionaries. And along with
the tyranny of the Inquisition, churchmen also brought religious justification
for the practice of slavery.
The
unsubmissive spirit of the Middle Ages only seemed to exacerbate the Church’s
demand for unquestioning obedience. The Church’s understanding of God was to be
the only understanding. The was to be no discussion or debate. As the
Inquisitor Bernard Gui said, the layman must not argue with the unbeliever, but
“trust his sword into the man’s belly as far as it will go.” In a time
burgeoning ideas about spirituality, the Church insisted that it was the only
avenue through which one was permitted to learn of God. Pope Innocent III
declared “that anyone who attempted to construe a personal view of God which
conflicted with Church dogma must be burned without pity.”…
The
Church turned to its own canon law to authenticate an agency which could
enforce adherence to Church authority. In 1231 Pope Gregory IX estabhished the
Inquisition as a separate tribunal, independent of bishops and prelates. It
administrators, the inquisitors, were answerable only to the Pope. Its
inquisitinal law replaced the common law tradition of “innocent until proven
guilty” with “guilty until proven innocent”. Despite an ostensible trial,
inquisional procedure left no possibility for the suspected to prove his or her
innocence; the process resulted in the condemnation of anyone even suspected of
heresy. The accused was denied the right of counsel. No particulars were given
as to the time or place of the suspected heresies, or to whatkind of heresies
were suspected…
The
inquisitor presided over the inquisitional procedure as both prosecutor and
judge… An inquisitor was selected primarily on the basis of his zeal to
prosecute heretics. He and his assistants, messengers and spies were allowed to
carry arms. And in 1245, the Pope granted him the right to absolve these
assistants for any acts of violence. This act rendered the Inquisition, which
was already free from any secular juridiction, unaccountable to even ecclesiastical
tribunals..
Inquisitors
grew very rich. They received bribes and annual fines from the wealthy who paid
to escape accusation. The Inquisition would claim all the money and property of
alleged heretics. As there was little chance of the accused being proven
innocent, there was no need to wait for conviction to confiscate his or her
property. Unlike Roman law that reserved a portion of property for the
convicted’s nearest heirs, canon and inquisitional law left nothing. Pope
Innocent III had explained that God punished children for the sins of their
parents. So unless children had come forth spontaneaously to denounce their
parents, they were left penniless. Inquisitors even accused the dead of heresy,
sometimes as much as seventy years after their death. They exhume and burned
the alleged heretic’s bones and then confiscated all property from the heirs…
The
Inquisition was merciless with its victims. The same man who had been both
prosecutor and judge decided upon the sentence. In 1244 the Council of Narbonne
ordered that in the sentencing of heretics, no husband should be spared because
of his wife, nor wife because of her husband, nor parent because of helpless
children, and no sentence should be mitigated because of sickness or old age.
Although
the Church had began killing heretics in the late fourth century and again in
1022 at Orléan, papal statutes of 1231 now insisted that heretics suffered
death by fire. Burning people to death technically avoided spilling a drop of
blood. The words of the Gospel of John were understood to sanction burning: “If
a man abide not in me, he is cast forth as a branch, and is withered; and men
gather them, and cast them into the fire, and they are burned” (John 15: 16)
By
far the cruelest aspect of the inquisitional system was the means by which
confessions were wrought: the torture chamber. Torture remained a legal option
for the Church from 1252 when it was sanctioned by Pope Innocent IV until 1917
when the new Codex Juris Canonici was put into effect. Innocent IV authorized
indefinite delays to secure confessions, giving inquisitors as much time as
they wanted to torture the accused… In 1262 inquisitors and their assistants
were granted the authority to quietly absolve each other from the crime of
bloodshed. They simply explained that the tortured had died because the devil
broke their necks.
Thus,
with licence granted by the Pope himself, inquisitors were free to explore the
depths of horror and cruelty. Dressed as black-robed fiends with black cowls
over their heads, inquisitors extracted confessions from nearly anyone. The
Inquisition invented every conceivable devise to inflict pain by slowly
dismembering and dislocating the body. Many of these devices were inscribed
with the motto “Glory be only to God”. The rack, the hoist and water tortures
were the most common. Victims were rubbed with lard or grease and slowly
roasted alive. Ovens built to kill people, made infamous in 20th
century Nazi Germany, were first used by the Christian Inquisition in Eastern Europe. Victims were thrown into a pit full of
snakes and buried alive. One particularly grusome torture involved turning a
large dish full of mice upside down on the victim’s naked stomach. A fire was
the lit on top of the dish causing the mice to panic and burrow into the
stomach…
The
tyranny inherent in the belief in singular supremacy accompanied explorers and
missionaries throughout the world. When Columbus
landed in America in 1492,
he mistook it for India
and called the native inhabitants “Indians”. It was his avowed aim to “convert
the heathen Indians to our Holy Faith” that warranted the enslaving and
exporting of thousands of Native Americans. That such treatment resulted in
complete genocide did not matter as much as that these natives had been given
the opportunity of everlasting life through their exposure to Christianity…
The
Inquisition quickly followed in their wake. By 1570 the Inquisition had
established an independent tribunal in Peru
and the city of Mexico
for the purpose of “freeing the land, which had become contaminated by Jews and
heretics. Natives who did not convert to Christianity were burned like any
other heretic. The Inquisition spread as far as Goa, India,
where in the late 16th and early 17th centuries it took
no less than 3,800 lives.
Even
without the formal Inquisition present, missionary behavior clearly illustrated
the belief in the supremacy of a single image of God… If the image of God
venerated in a foreign land was not Christian, it was simply no divine.
Portuguese missionaries in the far East destroyed pagodas, forced scholars to
hide their religious manuscripts, and suppressed older customs.
Missionaries
often took part in the unscrupulous exploitation of foreign lands. Many became
missionaries to get rich quickly and then to return to Europe
to live off their gains. In Mexico,
Dominicans, Augustinians and jesuits were known to own “the largest flocks of
sheep, the finest sugar ingenios, the best kept states. The Church,
particularly in South America, supported the
enslavement of native inhabitants and the theft of native lands. A 1493 papal
Bull justified declaring war on any natives in South
America who refused to adhere to Christianity…
Orthodox
Christianity also supported the practice of slavery in North
America. The 18th century Anglican Church made it clear
that Christianity freed people from eternal damnation, not from the bonds of
slavery…Slaves should, howver, be converted to Christianity, it was argued,
because they would then become more docile and obedient..
Both
the Inquisition and those supporting the practice of slavery relied upon the
same religious justification. In keeping with the orthodox Christian belief in
a singular and fearful God who rules as the pinnacle of hierarchy, power
resided solely with authority, not with the individual. Obedience and
submission were valued far more than freedom and self determination. The
Inquisition played out the darkest consequences of such a belief system as it
imprisoned and killed the bodies and spirits of countless people – and not
simply for a brief moment of time. The Inquisition spanned centuries and was
still in some places as late as 1834.
Sau
đây là vài hình ảnh điển hình về các cảnh tra tấn và hình cụ tra tấn dị giáo
của giáo hội Công giáo thánh thiện tông truyền trong thời Trung Cổ. Quý độc giả
có thể vào Internet đánh chữ GALLERY INQUISITION trong mục SEARCH thì có thể
thấy rất nhiều hình ảnh về một trong những trang sử đen tối nhất của Giáo hội
Công Giáo.
Một
Hình Cụ Tra Tấn
|
Một
Loại Giá Căng Người
|
Hình
cụ tra tấn này
sau
khi đâm vào miệng,
hậu
môn, âm hộ
rồi
vặn cho nó nở ra dần.
|
Hai Hình ảnh Tra
Tấn Dị Giáo Của
|
|
Giáo Hội Công Giáo
Trong Thời Trung Cổ
|
3.4. NÚI TỘI ÁC THỨ BỐN CỦA CÔNG GIÁO:
300 NĂM SĂN LÙNG PHÙ THỦY
3.4.1: NGUYÊN NHÂN.
Vài
Lời Nói Đầu:
René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp: Những người đã trở thành quá quen đi trong bóng tối đã
làm yếu đi cặp mắt của mình đến độ không thể chịu được ánh sáng ban ngày. [Tiến sĩ Barnado nhận
định những tín đồ Công Giáo đang sống trong “cái bóng tối dày đặc của Giáo hội
La Mã” (In the thick darkness of Romanism)]
(René
Descartes (1596-1650), French philosopher: Those who so become accustomed to
walk in darkness weaken their eyesight so much that afterwards they cannot bear
the light of day.)
Stopford A. Brooke (1831-1916), Mục sư Anh-Ái Nhĩ Lan: Nếu một ngàn niềm tin cổ xưa bị sụp đổ trong cuộc hành
trình của chúng ta đi tới chân lý thì chúng ta vẫn phải tiếp tục cuộc hành
trình. [Tây
phương đang tiếp tục cuộc hành trình này, bởi vậy Giáo Hoàng Benedict 16 mới
phải than: “Ở Âu Châu, Úc và Mỹ , không còn bằng chứng là con người còn cần đế
Thượng đế, đừng nói đến Chúa Ki-Tô” (Pope Benedict said to Italian priests: “in
Europe, Australia and the USA: "There's
no longer evidence for a need of God, even less of Christ," )]
(Stopford
A. Brooke (1831-1916), Anglo-Irish Minister: If a thousand old beliefs were
ruined in our march to truth we must still march on.)
Maurice Maeterlinck ( 1862-1949), tác giả người Bỉ: Một sự thật làm chúng ta đau lòng vì nó là sự thật thì
có giá trị hơn là những sự giả dối gây thích thú cho chúng ta rất nhiều [Samuel Butler viết:
Người Ki-Tô không sợ tội lỗi, chỉ sợ sự thật.]
(Maurice
Maeterlinck ( 1862-1949), Belgian author: A truth that disheartens because it
is true is of far more value than the most stimulating falsehoods.)
Học giả và nhà thần học người Đức Joachim Kahl: Người nào chưa bao giờ thấy mình căm phẫn Ki-tô Giáo
thì chưa bao giờ thực sự biết về Ki-tô Giáo.
(Joachim
Kahl, German scholar and theologian: Anyone who has never become indignant
about Christianity has never really known it.)
Trong
Phần Dẫn Nhập, chúng ta đã biết, Hồng Y John O’Connor, tổng giám mục giáo phận
New York, đã nhận định như sau, sau khi Giáo Hoàng John Paul II xưng thú 7 núi
tội ác của giáo hội Công Giáo trước thế giới:
"Hầu hết
các tín đồ Công Giáo không biết đến cái lịch sử mà Giáo hoàng nói đến, và nếu
tín đồ Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự
thật đó như thế nào."
(Most
Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if,
Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know
what that truth is.)
Vì
đã quen đi trong bóng tối, cho nên chúng ta thấy rõ các tín đồ Công Giáo, nhất
là những tín đồ Công Giáo Việt Nam,
không chịu được ánh sáng của những sự thật về tôn giáo của họ.
Bài
viết này có mục đích nghiên cứu một trong những trang sử đen tối nhất của Công
Giáo La Mã và Tin Lành: chủ trương “Săn
Lùng Phù Thủy”,
kéo dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18 ở khắp Âu Châu, với cao điểm cực kỳ dã man
tàn bạo trong 300 năm, từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, như sẽ được trình bày qua
một số tài liệu trong một phần sau. Chủ trương “Săn Lùng Phù Thủy” cũng được Tin Lành áp dụng ở Mỹ,
Salem và Boston, Massachusetts, năm 1692: 19 người bị treo cổ vì bị kết tội là
phù thủy, 150 người bị giam tù..
R.
H. Robbins đã gọi mấy trăm năm săn lùng và giết hại phù thủy này là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc
nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking
nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization) (mà Ki
Tô Giáo thường coi là nền văn minh Ki Tô Giáo). Và Helen Ellerbe cũng viết: “Số lớn người bị bạo hành và giết bỏ, cũng như tác
động của quan niệm thông thường về Thiên Chúa, làm cho những cuộc săn lùng phù
thủy là một trong những chương sử đen tối nhất của nhân loại.” (The vast numbers of
people brutalized and killed, as well as the impact upon the common perception
of God, make the witch hunts one of the darkest chapters of human history) [HE,
138].
Bài
viết này không ngoài mục đích là theo lời Hồng Y John O'Connor, giúp cho các
tín đồ Công Giáo và Tin Lành Việt Nam, biết một phần sự thật về những tội ác
của Ki Tô Giáo, hi vọng họ có thể “được
sự thật giải phóng”, nếu
họ có đủ can đảm bỏ được cái tâm cảnh sợ sự thật...
Đã
vài lần tôi đặt trước giới trí thức Công Giáo, giới Linh Mục câu hỏi:
Tại sao Giáo
Hội Công Giáo, một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là
"thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về
"công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v...
lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với
nhân loại như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô
Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa
Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên
đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào
cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô
Giáo hơn 500 năm?
Tại sao và tại sao ???
Cho
tới nay, tôi chưa thấy một lời giải đáp nào về phía Công Giáo, từ Giáo hoàng
trở xuống cho tới các con chiên. Họ không muốn và không thể trả lời câu hỏi
này. Và họ cũng không dám chấp nhận sự thật là: Giáo hội Công Giáo không do Chúa thành lập [trái với lời Chúa
phán trong Tân Ước là ngày tận thế sẽ tới ngay khi một số tông đồ của ông còn
sống, vậy lập ra giáo hội để làm gì?], Giáo hội Công Giáo cũng không phải là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân
loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh
linh hướng dẫn" v...v... [xét đến lịch sử ô nhục, đẫm máu của giáo
hội, đã được trình bày sơ lược trong 3 phần trước]. Tất cả chỉ là những điều
dối trá lừa bịp đám tín đồ thấp kém, vậy thì làm sao họ có thể trả lời câu hỏi
trên? Cho nên họ phải giữ im lặng, hi vọng đó là giải pháp tốt đẹp nhất để giữ
tín đồ trong ngục tù tăm tối của tâm linh. Tuy họ không trả lời nhưng tôi sẽ
tiếp tục nhắc đi nhắc lại câu hỏi trên, và tôi hi vọng những người ngoại đạo,
mỗi khi đối thoại với người Công Giáo, trước hết hãy mang câu hỏi này đặt với
họ xem họ trả lời ra sao. Có một câu trả lời có tính cách mạ lỵ đầu óc con
người mà giáo hội thường dùng để “giải thích” cho đám tín đồ thấp kém những
điều không thể giải thích được: “Đó là
ý Chúa, mà ý Chúa thì con người không thể nào hiểu nổi”. Nhưng rồi, mặt
khác, Giáo hội lại diễn giải Kinh Thánh, đặt ra những tín lý, đều nói là theo
“ý Chúa” cả, tuy rằng theo định nghĩa về Chúa của họ, con người không ai có thể
hiểu được “ý Chúa”. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, phát động các cuộc Thập Ác
Chinh (crusades), kích động tín đồ đi giết người ngoại đạo cũng được giáo hoàng
nói đó là “ý Chúa”. Và con người, vì một cái bánh vẽ trên trời, vẫn tiếp tục
lao đầu vào vòng mê tín để cho Giáo hội khai thác, tự tạo quyền lực và vơ vét
của cải thế gian. Tâm cảnh nô lệ Vatican của các giáo hội Công giáo địa phương,
trong đó có Việt Nam, và tài sản của Vatican đã lên tới cả ngàn tỷ đô la, trong
khi giáo hội và các linh mục thuộc hạ của giáo hội ở Việt Nam vẫn quảng cáo
Công Giáo là tôn giáo của người nghèo, là những bằng chứng chứng minh rõ ràng
hơn gì hết sự khai thác tâm linh tín đồ và vơ vét của cải thế gian của Vatican.
Nguyên Nhân Của Chủ Trương Săn Lùng Phù Thủy.
Nguyên
nhân từ đâu mà Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, lại chủ trương săn lùng
để tiêu diệt phù thủy, tuyệt đại đa số là phụ nữ. Chính là vì đầu óc quá hẹp
hòi, mê tín, u mê cuồng tín của những người lãnh đạo giáo hội: tuyệt đối tin
vào những điều không thể tin được trong Kinh Thánh, cộng với lòng tham lam vơ
vét tích tụ của cải thế gian, và cộng với tâm cảnh giáo phụ: coi thường, nhục
mạ phái nữ. Do đó, những bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo đã cùng nhau dẫn giắt đám tín
đồ thấp kém đi vào ma đạo, vì chỉ có ma đạo mới có thể có một lịch sử với nhiều
tội ác như vậy. Ai không đồng ý xin lên tiếng !
Charlie
Nguyễn, một trí thức Công Giáo tỉnh ngộ, trong bài viết về Quan niệm về phụ nữ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô, có viết về đề tài Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và
Thệ Phản Giáo dưới chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy một cách hết sức tóm
tắt như sau:
Tác
phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Quý Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản Hè 2003.
Nguyên tác bằng tiếng La-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh mục “quan án
đạo” là Heinrich Kramer và Jacob Sprenger [2 linh mục dòng Đa Minh]. Tác phẩm
được xuất bản lần đầu vào năm 1486 để làm tài liệu chính thức cho các quan tòa
án đạo xử dụng.
Mấy trang đầu
sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh của giáo hoàng
là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy. Đây là chứng
tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo dài 300 năm
(1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép vào tội phù
thủy. Người phụ nữ có thể bị người hàng xóm thù ghét vu cáo cho tội đã dùng bùa
phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là người phụ nữ đó có thể bị
truy tố ra Tòa Án Đạo, kết tội là phù thủy, tra tấn cực hình đến khi phải thú
nhận. Một phụ nữ bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm
có hình thù đặc biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma quỉ. Người
phụ nữ đó có thể bị kết án về tội phù thủy.
Vào đầu thế kỷ
15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) được giáo hoàng cử làm các quan án xử tội
phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có 100,000 người bị giết
bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.
Năm 1572, tại
Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với phù thủy hơn cả
Công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu sống 20,000 người
riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000
người bị đưa lên dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.
Sắc lệnh
9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII
Sắc lệnh của
giáo hoàng đưa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy, thầy pháp, bói toán...
Giáo hoàng cũng đưa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riêng ông ta để dạy dỗ các
quan án :
-Các phù thủy
có thể thông đồng với “quỉ đực, quỉ cái” để gây ra bão táp phá hoại mùa màng,
giết hại súc vật.
-Bọn phù thủy
đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay quỉ dữ và có khả năng xử dụng tà
thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.
-Phù thủy có
khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh hoạn. Họ kết ước với
ma quỉ để có thể biết trước tương lai bằng cách đoán mộng.
Đó là tiêu biểu
những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã tán bậy theo sự suy
tưởng ngu xuẩn của hắn.
Giáo hoàng và
bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh
hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản
luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để
ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít
nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ,
không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những
kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
Phải
chăng Charlie Nguyễn đã viết đoạn trên một cách vu vơ, vô căn cứ? Không hẳn
vậy. Trong Kinh Thánh có những câu, Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version:
“You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not
allow a witch to live.”]; Leviticus 19:26 “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này
trước mặt dân chúng”;
Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy
hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”. Và Giáo hội Công Giáo La Mã cũng như
Tin Lành sau này đã theo đúng những luật man rợ này của Thiên Chúa trong Kinh
Thánh để tiêu diệt những phù thủy, sản phẩm tưởng tượng của Thiên Chúa trong
Kinh Thánh mà Công Giáo cũng như Tin Lành tin là có thật, hay vu là có thật, để
theo đuổi những mục đích thế tục. Bác sĩ Trần Quý Nhu, tác giả bản dịch cuốn Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) của hai linh mục dòng
Đa Minh, Heinrich Kramer và James Spencer, cũng viết trong Chương Dẫn Nhập như
sau, trang 6:
Giáo hội Công
Giáo không những chỉ dồn lực lượng vào những cuộc chiến diệt các nhóm dị giáo,
mà còn chú trọng đến việc tiễu trừ những cá nhân lẻ loi về tội tin vào thần
khác thay vì tin vào Thiên Chúa và Giê-su. Giáo hội Công Giáo gọi những thần
khác là quỉ sứ và nhiều cá nhân như thế bị kết tội là phù thủy.
Chủ
trương diệt phù thủy đã được dạy trong Thánh Kinh. Giê-su phán rằng: “Đừng
tưởng ta đến để phá luật pháp hay lời các nhà tiên tri [trong Cựu Ước]. Ta đến không để phá mà để thực hiện toàn
vẹn. Ta đoan chắc rằng, chừng nào mà trời đất còn tồn tại, thì một dấu chấm,
một nét phảy trong luật pháp cũng không được bỏ qua cho đến khi tất cả các luật
đều được thi hành trọn vẹn.
Một
trong những luật man rợ này là Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version:
“You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not
allow a witch to live.”]. Chúng ta thấy, từ “Chúa” Giê-su cho đến tín đồ các
cấp về sau, đều tin nhảm tin nhí vào những luật mà ngày nay không ai không cho
rằng man rợ thuộc thời bán khai, sản phẩm của những đầu óc chưa mở mang, đặt
những sản phẩm này vào đầu một Thần theo sự tưởng tượng và mê tín của họ: Thiên
Chúa. Cũng vì vậy mà Giám mục John Shelby Spong đã phải than: “Cuốn Thánh Kinh mang đến cho tôi một Thiên Chúa mà
tôi không thể kính trọng đừng nói đến thờ phụng”. [It (the Bible)
offers me a God I cannot respect, much less worship] (JS, 24)
Một
yếu tố khác góp phần trong cuộc săn lùng tiêu diệt phù thủy của Công Giáo La Mã
chúng ta có thể thấy qua một trong 7 núi tội lỗi của Giáo Hội Công Giáo mà Giáo
Hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới: “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”. Vậy có lẽ chúng ta
cũng nên biết qua Công Giáo đã kỳ thị, hạ thấp và nhục mạ phụ nữ như thế nào?
Tôi không hiểu, một khi phái nữ trong giáo hội Công Giáo biết rõ sự kỳ thị,
nhục mạ, coi thường phẩm giá phụ nữ, thì họ sẽ nghĩ như thế nào về cái giáo hội
của họ. Phải chăng, đầu óc của họ đã bị nhồi sọ cho nên chỉ cần đến cái bánh vẽ
“cứu rỗi” trên trời và không cần để ý đến chuyện giáo hội đã từng coi họ còn
thấp hơn cả súc vật. Sau đây là một số quan điểm về phụ nữ của các bậc “thượng
phụ” trong “hội thánh” Công Giáo và trong Kinh Thánh:
Thánh Clement ở Alexandria
(150-215):
“Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục
nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should
be filled with shame by the thought that she is a woman. [HE, 114]
Thánh Jerome (342-420): “Về phần tôi, tôi nói rằng những người con gái đã trưởng thành không
được tắm, vì họ sẽ cảm thấy xấu hổ nhìn thấy mình trần truồng.” (But for my part I
say that mature girls must not bathe at all, because they ought to blush to see
themselves naked.” [JD, 175]; “Đàn bà
là cửa ngõ của quỷ, của đường ác, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một
vật nguy hiểm.” (Woman
is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a
word, a dangerous thing.) [EB, 47]
Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như
một người đàn bà" (Among savage beasts none is found so harmful as a
woman). Trách cứ những người đàn ông đi chơi gái điếm, Thánh John Chrysostom
còn phán: “Các người không chỉ để một gái
điếm như là một gái điếm, mà các người còn làm cho nó thành một sát nhân Đàn bà, được tạo nên để sinh sản, vì các ngươi mà trở
thành công cụ của sát nhân.” [vì gái điếm dùng các phương pháp ngừa thai]…(You not only let a harlot be a harlot, you made her into
a murderess….Woman, made for reproduction, becomes, because of you, a tool of
murderer.)
Thánh Augustine (354-430): “Tôi không thấy người đàn bà đã được tạo ra để giúp
cho đàn ông như thế nào, ngoài mục đích sinh sản. Nếu người đàn bà không giúp
đàn ông để sinh con, thì họ có thể giúp được gì?“ (I don’t see what
sort of help woman was created to provide man with, if one excludes the purpose
of procreation. If woman is not given to man for help in bearing children, for
what help could she be? [JH, 80]
Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như
là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ.
Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a
woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The
woman's voice is the hiss of the snake.)
Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra
người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà
không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman:
nothing (deficient) or defective should have been produced in the first
establishment of things; so woman ought not to have been produced then. [HE,
115])
Odo of Cluny,
10th century: “Ôm người đàn
bà là ôm một túi phân” (To embrace a woman is to embrace a sack of manure..
[HE, 115])
Thượng phụ Tertullian: “Đàn bà xứng đáng ở vị thế thấp kém và bị khinh khi. “Ngươi là cửa ngõ
của quỷ”.
(Women deserve their status as despised and inferior human beings. “You are the
devil’s gateway”)
Boethius, một triết gia Công Giáo trong thế kỷ 6: “Đàn bà là một đền thờ xây trên những ống cống” (Women is a temple
built upon sewer. [HE, 115])
Thánh Paul, 1 Corinthians 7:1 : “Thật tốt cho đàn ông là đừng có dính dáng gì tới một
người đàn bà.”
(It is a good thing for a man to have nothing to do with a woman.)
Thánh Paul, 1 Corinthians 11:3: “Nhưng tôi muốn các người hiểu rằng đấng Ki Tô là chủ
nhân của mọi đàn ông, chủ nhân của mọi đàn bà là chồng họ, và chủ nhân của đấng
Ki Tô là Thượng đế.”
(But I want you to understand that the head of every man is Christ, the head of
every woman is her husband, and the head of Christ is God.)
Leviticus 12: 1-5: “Một
người đàn bà thì không được sạch sẽ 40 ngày sau khi sinh con trai, 80 ngày sau
khi sanh con gái.” (A
woman is unclean 40 days after the birth of a son, 80 days after the birth of a
daughter.)
Thánh Paul, 1 Tim. 2:11-12: “Hãy để cho người đàn bà học sự phục tùng trong im
lặng. Tôi không cho phép người đàn bà nào được giảng dạy hay được quyền hơn
người đàn ông; họ phải giữ im lặng” (Let a woman learn in silence with all
submissiveness. I permit no woman to teach or to have authority over men; she
is to keep silent.) [Phải chăng vì vậy mà cho đến ngày nay Giáo hội vẫn không
cho phụ nữ làm linh mục?? Và ngay trong thời buổi này, ngày 9/8/2006, Mục sư
Timothy Labouf của First Baptist Church, Watertown, N.Y., đã giải nhiệm bà Mary
Lambert, một thầy giáo dạy các lớp học ngày chủ nhật trong 54 năm, giải thích
là theo đúng lời Thánh Paul dạy như trên trong Kinh Thánh. Ông mục sư này đần
đến độ không hiểu rằng phụ nữ ngày nay giữ nhiều chức vụ cao cấp trong ngành
giáo dục.]
Martin Luther (1483-1546): “Đàn ông thì vai rộng, hông hẹp, do đó họ thông minh.
Đàn bà vai hẹp, hông lớn. Đàn bà phải ở trong nhà: cách sáng tạo ra cơ thể họ
chứng tỏ vậy, vì họ có hông lớn, bàn tọa rộng để ngồi, làm việc nhà, sinh con
và nuôi con”
(Men have broad shoulder and narrow hips, and accordingly they possess
intelligence. Women have narrow shoulders and broad hips. Women ought to stay
home: the way they were created indicates this, for they have broad hips and a
wide fundament to sit upon, keep house and bear and raise children. [EB, 49])
Xét
đến vai trò của phụ nữ trong xã hội Việt Nam từ xưa, từ những Nữ Tướng như Hai
Bà Trưng, Bà triệu, Bùi Thị Xuân v..v.. cho đến các bậc văn tài như Bà Huyện
Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương v..v.., và vai trò của phụ nữ trong
những xã hội văn minh tiến bộ ngày nay trên thế giới, chúng ta thấy rằng quan
niệm về phụ nữ trong đầu óc của những bậc Thánh trong Công Giáo, cũng như của
những lãnh tụ Tin Lành như Martin Luther, John Calvin v..v…, đều thuộc loại bán
khai, ngu si vô trí.
Cũng
vì vậy mà sự tin nhảm tin nhí vào phù thuỷ có thực trên thế gian không chỉ ở
trong Công Giáo mà còn trong Tin Lành. Thật vậy, Martin Luther, ông tổ
của Phản Thệ Giáo, alias Tin Lành [thực sự chỉ là Tin Dữ], tin chắc cuốn Kinh
Thánh là quyền uy tối cao, không ngần ngại thiêu sống phù thủy. Ông ta cho phép
thiêu sống 4 phù thủy ở Wittenberg,.
Ông ta phát biểu: “Tôi không hề có
lòng thương các phù thủy..Tôi có thể thiêu sống tất cả bọn họ.” (Martin Luther,
upholding the Bible as the supreme authority, had no reservations about burning
witches. He sanctioned 4 executions at Wittenburg. “I should have no compassion
on the witches…I would burn them all.” [EB, 53] và John Calvin (1545)
đích thân chỉ huy một chiến dịch ở Geneva
chống 31 người bị kết án là phù thủy. Calvin tuyên bố: “Kinh Thánh dạy chúng ta là có những phù thủy và họ
phải bị giết.. luật này của Thiên Chúa là một luật phải được áp dụng khắp nơi” (John Calvin
personally led a campaign in Geneva
against 31 persons accused of witchcraft. Calvin declared: The Bible teaches us
that there are witches and they must be slain… this law of God is a universal
law.” [EB, 52-53]
Chắc
quý độc giả cho rằng niềm tin về sự có thực của phù thủy và phải thiêu sống họ
chỉ có trong quá khứ chứ ngày nay không còn ai nghĩ như vậy nữa. Không hẳn vậy.
Sau vụ 9-11 ở New York, trước ngày lễ Halloween, 31 tháng 10 hàng năm, Mục sư
Tin Dữ Deacon Fred, trong một bài giảng cho các tín đồ, cho rằng bổn phận của
người Ki-tô là phải giết phù thủy ngay trong thời đại này:
Thiên Chúa rất
rõ ràng ở đây, thưa quý vị, ông ta không muốn cho các phù thủy sống. Chúng ta
phải giết các phù thủy! Nếu không, chúng ta đang bất tuân lệnh của Thiên Chúa.
Jesus sẽ vui mừng đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít
hà lên mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. [Trong ngày lễ
Halloween vào 31 tháng 10 mỗi năm, rất nhiều người ăn mặc giả làm phù thủy kéo
ra chật đường phố] Có phải là như vậy
đã phá tan ngày sinh nhật nhỏ của Satan không? Hãy ca tụng Thiên Chúa. [Vui mừng khi được hít
hà mùi thịt nướng của một con người]
Thật là xấu hổ vì chính quyền Mỹ đã ngăn cấm người dân không được thực hành
lệnh trong Kinh Thánh là phải thiêu sống phù thủy.
(God
is very clear here, folks, he doesn't want witches to live. We are supposed to
be killing witches! If we don't, we are disobeying God. Jesus would weep tears
of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a
witch this Halloween. Wouldn't that ruin Satan's little birthday party! Praise
God! It's just a shame that the United States Government has placed
restrictions on the Biblically-mandated practice of witch burning.) [I]
Sự
tai hại của niềm tin vào những điều viết nhảm nhí trong Kinh Thánh thật đã rõ
rệt. Ở nơi nào mà Khi Tô Giáo, đặc biệt là đám Tin Lành cuồng tín, đám người
tin tất cả vào uy quyền tối thượng của Kinh Thánh, nắm quyền thế tục thì lịch
sử đẫm máu của Ki Tô Giáo sẽ lại tái diễn. Tất cả bắt nguồn từ niềm tin vào
cuốn sách gọi là Kinh Thánh và nhân danh Thiên Chúa của họ. Do đó, mọi người
Việt Nam phải gia tâm bác bỏ
đạo Tin Lành, một đạo hoàn toàn không thích hợp với người Việt Nam vì
những niềm tin thuộc thời man rợ bán khai của họ..
Sau
đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về 300 năm săn lùng phù thủy của Ki Tô
Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, để thấy rằng chính giáo hoàng của Công Giáo
La Mã, các linh mục Công Giáo, các Mục sư Tin Lành, và cả các trí thức Ki Tô
Giáo, trong 300 năm tội ác ngập trời trên, thực sự mới là hiện thân của quỷ
(human demons) chứ không phải là người. Họ săn lùng tiêu diệt phù thủy mà họ
cho là ma quỷ theo sự tưởng tượng của họ chứ sự thực không làm gì có phù thủy
hay ma quỉ, kết quả là họ hành động như những ác quỷ của thế gian. Thật vậy,
chúng ta có thể đọc trên Internet đoạn sau đây trong bài The Witch Hunters of Europe,
The Cruelest of Executioners [Những Đao Phủ Tàn Ác Nhất: Những Kẻ Săn Lùng
Phù Thủy Ở Âu Châu]:
Cuộc
săn lùng phù thủy một cách điên cuồng đã làm chấn động Âu Châu trong những thế
kỷ 15, 16, 17 có thể đã không chứng minh được sự hiện hữu của những con quỷ
siêu nhiên [phù thủy] nhưng đã sinh sản ra
một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ một tổ
chức những người bệnh hoạn tự cho là mình đúng và hiến thân cho công cuộc săn
lùng những đầy tớ gái của quỷ [phù
thủy]
(The
witch hunting mania that convulsed Western Europe during the 15th, 16th and
17th centuries may not have revealed the existence of supernatural demons but
it did generate an extraordinary array of human monsters ~ the witch hunters ~
a pathological righteous brotherhood that devoted itself to ferreting out
suspected handmaidens of the devil.)
Điều
đặc biệt nhất trong Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, là những con quỷ
người này lại thường là các linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ
v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh
thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh, nhưng thực ra chỉ là những con người
thường như mọi người khác, cũng mê tín như Giáo hoàng của họ, và gồm cả các Mục
sư Tin Lành nổi tiếng như Martin Luther và John Calvin.
3.4.2 Những Biện Pháp Săn Lùng Và Tiêu Diệt
Phù Thủy:
Jakob Sprenger và Heinrich Kramer, tác giả cuốn Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum):
“Chưa từng biết
có một người vô tội nào bị trừng phạt vì nghi ngờ là phù thủy, và không còn
nghi ngờ gì là Thượng đế sẽ không bao giờ cho phép việc đó xảy ra.”
(It
has never yet been known that an innocent person has been punished on suspicion
of witchcraft, and there is no doubt that God will never permit such a thing to
happen.)
Ronald Seth trong Witches and Their Craft:
“Công lý đã sai
lầm và nhiều ngàn nam nữ chết vì những bằng chứng kết tội ngụy tạo của những kẻ
đố kỵ hoặc trả thù ”
(Justice
was perverted and thousands of innocent man and women died on the false
evidence of envious or vengeful accusers.)
Mark Twain trong Europe and Elsewhere:
“Có những phù
thủy trong nhiều thời đại. Thánh Kinh viết vậy. Thánh Kinh ra lệnh không được
để cho các phù thủy sống sót. Do đó, Giáo hội thu thập những giây thòng lọng,
những cái kẹp ngón tay, và củi lửa, rồi khởi sự công cuộc thánh thiện trong sự
hăng say nhất.. [để
tra tấn, treo cổ và thiêu sống các nạn nhân] Rồi người ta khám phá ra rằng chẳng có cái gì là phù thủy, và chưa từng
bao giờ có phù thủy. Người ta không biết nên cười hay khóc”
(During
many ages there were witches. The Bible said so. The Bible commanded that they
should not be allowed to live. Therefore, the Church…gathered up its halters,
thumbscrews. and firebrands, and set about its holy work in earnest.. Then it
was discovered that there was no such thing as witches, and never had been. One
does not know whether to laugh or cry.)
Clifford Lindsey Alderman trong The Devil’s Shadow:
“Quy tội (phù thủy) cho hàng trăm nam nữ thật là vô nghĩa, và những phiên
xử án chỉ là những trò hề công lý.”
(The
charges brought against the hundreds of women and men were senseless, and the
trials themselves travesties of justice.)
*
Trong
Phần trên: 3.4.1, viết về nguyên nhân của chủ trương săn lùng và giết hại phù
thủy của giáo hội Công Giáo trong 300 năm ở Âu Châu, tôi đã đưa ra nhận định
của một trí thức đạo gốc, Charlie Nguyễn, như sau:
Giáo hoàng và
bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh
hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản
luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để
ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít
nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ,
không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những
kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
Sau
đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về thời kỳ mấy trăm năm săn lùng và
giết hại phù thủy này mà R. H. Robbins đã gọi là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc
nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking
nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization), một
thời kỳ “đã sinh sản ra một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn
lùng phù thủy ~ đặc biệt là những con quỷ người này thường lại là các giám mục,
linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người
tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh
Linh. “
Đọc
những tài liệu về “cơn ác mộng” trên, chúng ta không thể tưởng tượng được là
tại sao một tôn giáo, theo định nghĩa là phải có mục đích hướng dẫn tâm linh
con người theo sự thăng tiến của trí tuệ và đạo đức, nhưng ngược lại, lại nhốt
con người vào những tù ngục tâm linh tăm tối, cùng lúc lại có những hành động
vô cùng độc ác đối với nhân loại. Vậy thực chất Ki Tô Giáo có phải là một tôn
giáo hay không, và những tín đồ Ki Tô Giáo nghĩ sao về cái “lịch sử tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm
nhất”
của tôn giáo mà mình đang theo. Trên thế gian từ xưa tới nay không thiếu gì
những sự bạo hành ở khắp nơi, trong những chế độ phong kiến và quân phiệt, và
ngay trong thời đại này trong sách lược xuất cảng dân chủ của Mỹ. Nhưng tại sao
những sự bạo hành vô tiền khoáng hậu đó lại nằm trong chính sách của một tôn
giáo? Mà tôn giáo này lại do Chúa thành lập, một vị Chúa “quá thương yêu thế
gian” theo như lời rao giảng của giáo hội cho đám tín đồ ở dưới, và một số
không nhỏ các giáo hoàng thừa kế tự nhận là đại diện của Chúa trên trần (Vicars
of Christ) nhưng lại phạm đủ mọi tội ác trên thế gian, những tội ác mà những
người không hề biết đến Chúa không bao giờ có thể phạm. Ai có thể giải thích
tại sao và cho tôi biết thực chất của Ki Tô Giáo là như thế nào, xin lên tiếng.
Phải chăng các tín đồ Ki Tô Giáo đã bị mờ mắt trước những cái bánh vẽ “cứu
rỗi”, “thiên đường” mà không nhìn thấy những sự việc sờ sờ ngay trước mắt trong
tôn giáo của mình?
Giáo
hội Công giáo cố che dấu lịch sử của giáo hội, nhưng Giê-su đã từng nói, Mark
4:22: “Không có gì được che dấu mà
không bị phanh phui ra, cũng như không có gì được giữ bí mật mà không bị đưa ra
ánh sáng.”
[Mark 4:22: "For there is nothing hidden which will not be revealed, nor
has anything been kept secret but that it should come to light."]
Vậy,
sau đây chúng ta hãy đưa ra ánh sáng một số chi tiết về các cuộc săn lùng phù
thủy của giáo hội Công Giáo thánh thiện tông truyền. Các tài liệu này đều là
của các nghiên cứu gia trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội ở Tây phương,
không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản [Tôi xin nhấn mạnh
điểm này], do đó những luận điệu chống đối lố bịch như nhân danh Phật Giáo để
gây chia rẽ tôn giáo, hay theo sách lược chống Thiên Chúa Giáo của Cộng Sản
v..v… đều chỉ là những luận điệu chụp mũ vu vơ của những kẻ hạ căn, thiển cận,
không thuộc hàng ngũ trí thức. Và đây cũng chỉ là vài tài liệu điển hình trong
số hàng trăm các tài liệu viết về một trang sử ô nhục nhất của Ki Tô Giáo.
1.
Milton Meltzer, Witches and
Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999:
Một
cuộc săn lùng phù thủy điên cuồng , kéo dài hơn 400 năm – từ thế kỷ 14 qua thế
kỷ 17 – đã giết hại nhiều triệu người ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là phụ nữ. Sự
điên cuồng này khởi sự trong thời trung Cổ và kéo dài cho tới Thời Đại Lý Trí.
Lâu sau đó, trong thế kỷ 20, nhà độc tài Đức Quốc Xã, Adolf Hitler, đã chỉ đạo
một chiến dịch bạo hành có tổ chức – thường gọi là săn lùng phù thủy – những
người Do Thái ở Đức và Âu Châu đưa đến cái chết của 6 triệu người đàn ông, đàn
bà và con trẻ.
Cuốn
Thánh Kinh chỉ đạo cuộc săn lùng phù thủy xuất hiện năm 1486.. Đó là một cuốn
sách dày gọi là Búa Phù Thủy (Malleus
Maleficarum). Đây là cuốn sách đầu tiên về ảo thuật và phù thủy, viết bởi hai
linh mục dòng Đa Minh ở Đức: Heinrich Kramer và Jacob Sprenger.
Hai
năm trước, Giáo Hoàng Innocent VIII đã cho phép hai ông linh mục này quét sạch
phù thủy ờ Đức. Cuốn sách chỉ nam về bạo hành này đã là một dụng cụ ở trong tay
mọi ông tòa xét xử phù thủy và mọi kẻ săn lùng phù thủy trong 3 thế kỷ. Cuốn Búa Phù Thủy đã được tái bản 14 lần. Nó trở thành một
cuốn sách có ảnh hưởng nhất trong những cuốn sách đã được in ra trước đó. Cuốn
sách mở đầu bằng sự phản bác quan niệm về sự không hiện hữu của phù thủy. Cuốn
sách viết, đức tin chân thật dạy rằng có một số thiên thần sa ngã từ thiên
đường xuống và nay trở thành quỷ và do bản chất quỷ của chúng, chúng có thể làm
những việc phi thường mà chúng ta không làm được. Các tác giả trên viết rằng
Satan và các quỷ có thể tự chúng làm những điều tác hại, hoặc cùng với, hoặc
qua các phù thủy để tác hại. Cuốn sách mô tả những chuyện phù thủy có thể làm
và những phương thức chống phù thủy.
Hai
linh mục trên viết ra từ những kinh nghiệm của mình, vì chính họ đã đích thân
xử 50 phù thủy trong đó 48 là phụ nữ. Cuốn Búa Phù Thủy
trở thành quyền hành chỉ đạo cho những cuộc săn lùng phù thủy có tổ chức. Những
cuộc săn lùng phù thủy được phát động và thi hành bởi giáo hội và chính quyền
[trong thời mà thần quyền đứng trên chính quyền]. Cuốn Búa Phù Thủy dạy phải tra tấn nạn nhân như thế nào để
cưỡng bách họ phải thú tội rồi kết án họ ra sao. Cách tra tấn thông thường là
lột trần truồng người phụ nữ bị cho là phù thủy, cạo hết lông trên người, rồi
dùng cái kẹp ngón tay, giá căng người, những hình cụ có đinh dài nhọn hoặc dùng
để nghiền gẫy xương, và đánh đập hoặc bỏ đói.
Khi
cơn lốc bạo hành đi vào thế kỷ 15, số nạn nhân thật nhiều vô kể. Nicholas Remy,
một quan án đạo ở Lorraine, Pháp, chủ tọa các cuộc xử án phù thủy, viết rằng
sau một thời gian tra tấn phù thủy, ông ta biết rằng “chúng xứng đáng chịu mọi sự tra tấn và rồi thiêu
sống… và những cảnh khủng khiếp này có thể dùng làm gương và cảnh báo cho những
người khác.”
Remy
đã thiêu sống từ 2000 đến 3000 nạn nhân trong khoảng 21 năm, từ 1595 đến 1616.
Torquemada
(1420-1498), Đại Phán Quan (Grand Inquisitor) Tây Ban Nha được biết là đích
thân đã thiêu sống hơn mười ngàn (10000) người và kết án 97 ngàn người khác
trong vòng chưa đầy 20 năm. [Theo Bernard Fall trong The Two Viet-Nams" , Frederik A. Praeger
Publisher, New York 1967, trang 236, thì Ngô Đình Diệm cũng là một loại Phán
Quan Tây Ban Nha (Spanish Inquisitor) : Tính
hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này: Đức tin của ông ta ít
có tính chất từ ái của các tông đồ hơn là tính hiếu chiến tàn nhẫn của một Đại
Phán Quan Tây Ban Nha của Tòa Án Dị Giáo (Torquemada) (Ngo Dinh Diem's
militancy is of that kind: His faith is made less of the kindness of the apostles,
than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor) ]
Trong
12 năm, từ 1581 đến 1593, những sự bạo hành phù thủy hoành hành khắp thị trấn
Trier đầy nhà thờ ở Đức. Giám mục thị trấn Trier, Peter Binsfield, tuyên án tử
hình khoảng 6000 người.
Năm
1620 ở vùng Wurzburg,
Đức, chúng ta có thể thấy những thí dụ ngoạn mục về một sự tận diệt toàn diện
các phù thủy. Giám Mục Wurzburg thiêu sống 900 người vì tội làm phù thủy..
Tổng
giám mục Trier thiêu sống 268 phù thủy trong 22 làng mạc trong khoảng từ 1587
đến 1593. Trong 2 làng trong số này, tới năm 1595 chỉ có một phụ nữ được sống
sót.
Người
Do Thái là một nhóm người khác bị bạo hành, nhất là khi những cuộc săn lùng phù
thủy ở cao điểm. Trong Tân ước, John 8:44 gọi quỷ là cha đẻ của dân Do Thái.
Trong Khải Huyền 2:9 và 3:9 có nói đến “giáo
đường
[nơi người Do Thái tụ họp cầu nguyện] của
Satan”.
Những vị lãnh đạo trong giáo hội Ki Tô Giáo lên án người Do Thái thờ phụng
Satan và trao con cái cho các quỷ.
Ở
Anh quốc, dưới triều đại Tin Lành của Henry VIII và Elizabeth 1, sự bạo hành thật nghiêm trọng.
Và đó không phải là những nhà cầm quyền Tin Lành duy nhất đã kẹp gẫy xương phù
thủy trên giá căng hay áp sắt nung đỏ vào người nạn nhân. Ở Netherland cũng
vậy, tra tấn bằng roi, kẹp sắt, và thiêu sống cũng là điều hiển nhiên.
Martin
Luther, 1483-1546, người sáng lập ra giáo phái Chống Đối [Tin Lành], đã tăng
gia sự mê tín trong thời của ông ta. Những tác phẩm ông viết ra làm chứng cho
những sự tấn công của quỷ đối với ông ta, và ông ta thường cho những hành động
ác ôn là của phù thủy – trong số này ông ta gồm những người đối nghịch với ông.
Ông ta nghĩ rằng quyền năng của phù thủy thật đáng kinh ngạc; đã có lần ông
viết: “ Tôi không có sự thương hại nào đối với các phù thủy, tôi có thể thiêu
sống tất cả chúng.”
Thôi
thúc bởi cuốn Búa Phù Thủy, nước Đức [nước của
Hitler và của giáo hoàng đương nhiệm: Benedict XVI] có một lịch sử đen tối nhất
về sự bạo hành phù thủy, nhưng các nước khác – Pháp, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tô
Cách Lan – tất cả đều nâng cao tổng số sát nhân. Khi cuộc khủng bố đạt tới đỉnh
cao [trí tuệ của Ki Tô Giáo] , những người nghi ngờ bắt buộc phải tỏ sự đồng
tình tin là có phù thủy. Tỏ ý không tin là có phù thủy đặt con người vào nguy
cơ là chính họ sẽ bị tố cáo là phù thủy. 1
2.
James A. Haught, Holy Horrors: An
Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76:
Trong
thế kỷ 15, Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Thánh Thiện [The Holy Inquisition]
chuyển mục tiêu sang các phù thủy, và ba thế kỷ tiếp theo đã chứng kiến sự
cuồng loạn kỳ quái của ảo tưởng tôn giáo. Nhân viên của Giáo Hội đã tra tấn vô
số ngàn người phụ nữ, và một số đàn ông, để bắt họ phải thú nhận là họ đã bay
trên không để thi hành những nhiệm vụ của quỷ, làm tình với Satan, tự biến
thành súc vật, tự làm cho mình trở nên vô hình, và làm những việc ác siêu
nhiên. Hầu như mọi người bị kết án là phù thủy đều bị xử chết.
Mới
đầu Giáo Hoàng Gregory IX cho phép giết các phù thủy trong thế kỷ 13, và những
tòa xử phù thủy không nhiều, nhưng sự điên cuồng không bắt lửa cho đến thế kỷ
15. Năm 1484 Giáo hoàng Innocent VIII ban một sắc lệnh tuyên bố về sự hiện hữu
tuyệt đối có thật của phù thủy – do đó nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là lạc
đạo [nghĩa là có thể bị các Tòa Hình Án xử dị giáo xử]. Truy tố phù thủy tăng
lên vùn vụt. Quan án đạo Cumanus thiêu sống 41 phụ nữ trong năm tới và một đồng
nghiệp ở Piedmont nước Ý hành quyết 100 người.
Sau
đó không lâu, hai quan án đạo dòng Đa Minh, Jakob Sprenger và Heinrich Kramer,
xuất bản cuốn sách ô nhục Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) nêu
ra một bản kinh cầu khủng khiếp về những hành động quỷ thuật của các phù thủy
và những tiểu yêu , những thân nhân, ma quái, quỷ, quỷ đực, quỷ cái của chúng.
Cuốn sách mô tả những phù thủy đã làm hại mùa màng, ăn thịt trẻ con, làm ra
bệnh tật, và làm phù chú như thế nào. Cuốn sách chứa đầy những chuyện tình dục
của phù thủy và coi phụ nữ như là xảo quyệt và đáng khinh. Jakob Sprenger và
Heinrich Kramer viết: “Mọi phù thủy đều xuất thân từ sự khao khát xác thịt,
điều mà phụ nữ không bao giờ thỏa mãn.” Khoa tâm lý học hiện đại nhận ra dễ
dàng chứng bấn loạn thần kinh của các linh mục này về tình dục – nhưng trong
nhiều thế kỷ cuốn sách của họ đã là cuốn chỉ nam chính thức cho các quan án đạo
để đưa các phụ nữ đến những cái chết khủng khiếp.
Những
cuộc săn lùng phù thủy nở rộ ở Pháp, Đức, Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha, Ý, Thụy
Sĩ, Thụy Điển và hầu như trên khắp mọi nơi ở Âu Châu – sau cùng lan tới Anh, Tô
Cách Lan, và vùng thuộc địa Vịnh Massachusetts (Đông Bắc Mỹ). Hầu hết các nạn
nhân là phụ nữ đã già mà những hành động khác thường đã gây nên sự nghi ngờ
trong láng giềng. Một số khác còn trẻ, đẹp. Vài người là đàn ông. Nhiều người
trong lục địa Âu Châu chỉ là những công dân bình thường nhưng tên của họ là do
những nạn nhân bị tra tấn khai ra [vì không chịu nổi sự tra tấn] khi được lệnh
phải khai ra đồng bọn.
Phương
thức xử dị giáo tiêu chuẩn là cô lập và tra hỏi những người bị nghi ngờ là phù
thủy – thêm vào một bước: những nạn nhân bị lột trần truồng, cạo hết lông trên
người, và dùng mũi nhọn đâm dò trên người. Cuốn Malleus Maleficarum chỉ rõ rằng mọi phù thủy đều mang
trên người một “dấu của quỷ” không có cảm giác, mà người ta có thể dò ra được
bằng cách đâm để dò bằng một vật nhọn. Những quan án đạo cũng nhìn vào các đầu
núm vú của “phù thủy”, những vết chàm có thể là những đầu vú bí mật để cho các
quỷ bú.
Nếu
tìm dò trên người không thấy thì sự tra tấn bắt đầu. Móng tay bị rút ra. Những
miếng sắt nóng đỏ được áp vào ngực. Nhà nghiên cứu Nancy Van Vuuren viết: “Bộ phận sinh dục của phụ nữ đặc biệt hấp dẫn những
người tra tấn phái nam”. Thân thể bị căng trên giá hay trên bánh xe. Erica Jong
viết “Tay
bị trật khớp xương và nạn nhân thường thú nhận có những thỏa thuận hoặc hội họp
với quỷ.”
Hầu như mọi nạn nhân bị tra tấn như vậy đều thú tội – và bị hành quyết dựa trên
sự thú tội này.
Ở
vùng Basque, Tây Ban Nha, hồ sơ ghi chép của giáo hội Công giáo ghi rõ là trong
cuộc tra tấn, Maria ở Ituren đã thú nhận chính mình và các chị em phù thủy đã
tự biến thành những con ngựa phi trên trời. Ở một quận trong nước Pháp, 600 phụ
nữ thú nhận là đã làm tình với quỷ.
Tổng
số phù thủy bị chết không thể biết được. Một vài hồ sơ lịch sử còn hiện hữu;
một số đã mất mát. Các ghi chép viết 5000 phù thủy bị giết ờ tỉnh Alsace, 900 ở
thị trấn Bamberg, 2000 ở Bavaria, 311 ở Vaud, 167 ở Grenoble, 157 ở Wurzburg,
133 trong một ngày ở Saxony. Trong vài làng mạc, phụ nữ bị tận diệt.
Sự
điên cuồng tiếp tục cho đến thế kỷ 18. Ở Scotland, một bà già bị thiêu sống
năm 1722 sau khi bị kết tội là đã biến đứa con gái mình thành con ngựa con rồi
cưỡi nó đến dự cuộc họp của các phù thủy. Ở Đức, một nữ tu bị thiêu giữa chợ ở Wurzburg năm 1749 sau khi
các nữ tu khác chứng nhận là nữ tu này trèo qua tường của tu viện dưới dạng một
con heo. Cuộc hành quyết phù thủy cuối cùng là ở Thụy Sĩ, vào năm 1782. Tới
thời kỳ này, nhiều khoa học gia và học giả đã nêu lên những nghi vấn về sự thực
hữu của các phù thủy do đó chấm dứt sự điên cuồng [tiêu diệt phù thủy của giáo
hội].
Một
sự khôi hài sâu đậm về những cuộc săn lùng phù thủy là chúng được chỉ đạo,
không phải bởi những người man rợ mê tín, nhưng bởi những giám mục có học thức,
những ông Tòa, giáo sư, và các cấp lãnh dạo khác trong xã hội. Những thế kỷ ám
ảnh bởi phù thủy cho thấy quyền năng khủng khiếp của những niềm tin vào siêu
nhiên. 2
3.
Helen Ellerbe, The Dark Side Of
Christian History,
Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138:
Giáo
hội Công giáo đã tạo ra một quan niệm tinh vi về sự thờ phụng quỷ và rồi dùng
sự bạo hành của giáo hội để đối phó và quét sạch những người bất đồng ý kiến,
đưa con người vào vòng kiểm soát độc đoán của giáo hội và công khai hạ thấp phụ
nữ.
Phải
mất một thời gian lâu giáo hội mới làm cho xã hội tin rằng phụ nữ thường có
khuynh hướng thờ phụng quỷ và làm những việc ác của phù thủy…Trong thế kỷ 13,
giáo hội bắt đầu miêu tả phù thủy là nô lệ của quỷ..
Giáo
hoàng John XXII chính thức hóa sự bạo hành phù thủy năm 1320 khi ông ta cho
phép tòa án xử dị giáo truy tố phù thủy. Sau đó những sắc lệnh và tuyên ngôn
của giáo hoàng càng ngày càng lên án mãnh liệt phù thủy. Năm 1484 giáo hoàng
Innocent VIII ban sắc lệnh Summis Desiderates cho phép hai quan án đạo Kramer
và Spencer hệ thống hóa sự bạo hành phù thủy. Hai năm sau, cuốn Búa Phù Thủy của họ được xuất bản, sau đó với 14 ấn bản
trong khoảng 1487-1520 và ít nhất là 16 ấn bản trong khoảng 1574-1669. Một sắc
lệnh của giáo hoàng năm 1488 kêu họ mọi quốc gia ở Âu Châu hãy cứu giáo hội bị
“nguy hại bởi những nghệ thuật của Satan”. Giáo hoàng triều và cơ quan xử dị
giáo đã thành công biến đổi phù thủy từ một hiện tượng mà trước đó giáo hội cực
lực phủ nhận thành một hiện tượng có thực, rất đáng sợ, đối nghịch với Ki Tô
Giáo, và tuyệt đối đáng bị bạo hành.
Vì
những tác giả cuốn Malleus Maleficarum ghi rằng: “Niềm tin vào sự hiện hữu của
các phù thủy là phần cần thiết của đức tin Công Giáo nên bướng bỉnh không chịu
tin như vậy là lạc đạo”. Đoạn trong Thánh Kinh như “Ngươi không được để cho một phù thủy nào được sống
sót”
được viện dẫn để biện minh cho sự bạo hành phù thủy. Cả Calvin và Knox [hai nhà
lãnh đạo Tin Lành] đều tin rằng phủ nhận sự hiện hữu của phù thủy nghĩa là là
phủ nhận quyền năng của Thánh Kinh. Nhà sáng lập hệ phái Tin Lành Giám Lý trong
thế kỷ 18, John Wesley, tuyên bố về những người nghi ngờ sự hiện hữu của phù
thủy là: “loại bỏ sự hiện hữu của phù thủy là loại bỏ Thánh Kinh.” Và một luật
sư người Anh nổi tiếng viết: “Phủ nhận
sự khả hữu, không, sự hiện hữu thực sự của phù thủy, là lập tức dứt khoát tỏ sự
mâu thuẫn với những lời mạc khải của thiên chúa trong nhiều đoạn trong Cựu Ước
và Tân ước.”
Sự
bạo hành phù thủy đã giúp kéo dài thời gian thu thập những lợi nhuận của những
tòa án xử dị giáo của giáo hội. Những tòa án xử dị giáo đã khiến cho nhiều vùng
suy sụp về kinh tế đến độ quan án đạo Eymeric phải than phiền: “Trong thời này, không còn những kẻ lạc đạo giầu có
nữa.. thật là đáng tiếc là một định chế có ích lợi như của chúng ta lại không
chắc về tương lai của nó.” Thêm những tội ác của những phù thủy vào những người mà
giáo hội bạo hành ngoài những kẻ dị giáo, những tòa án xử dị giáo có cả một
nhóm người mới để có thể thu vét tiền bạc từ nhóm này và giáo hội lợi dụng tối
đa cơ hội này. Tác giả Barbara Walker ghi nhận:
“Những nạn nhân
phải trả tiền cho ngay cả sợi giây thừng trói họ và mớ củi thiêu sống họ. Mỗi
một phương cách tra tấn đều có một giá (mà nạn nhân phải trả). Sau khi hành quyết một nạn nhân giầu có, các viên chức
của giáo hội thường mở tiệc ăn mừng dùng tiền từ tài sản của nạn nhân.”
Năm
1592, linh mục Cornelius Loos viết: “Những
nạn nhân khốn khổ vì bị tra tấn tàn bạo bắt buộc phải thú nhận những điều họ
chẳng bao giờ làm, và do đó những con người vô tội bị chết bởi cái lò sát sinh
độc ác; và bằng thuật luyện kim mới, vàng bạc được lấy ra từ máu người.” 3
4.
Malise Ruthven, Torture: The Grand
Conspiracy,
Weidenfeld and Nicolson, London,
p. 119:
Cuốn
Thánh Kinh chỉ đạo cho những kẻ sát nhân khủng khiếp này là cuốn “Búa Phù Thủy” ô nhục, một cuốn sách viết bởi hai linh mục
cuồng tín dòng Đa Minh và xuất bản năm 1486. Đối với các tác giả của cuốn sách,
không có mánh khóe gian dối nào là thủ đoạn, không có sự tra tấn nào là quá mức
khi dùng để lấy lời thú tội. Cũng không có lý do nào được phép nghi ngờ hay
nhân nhượng. Phương châm của cuốn sách là: “Không tin có phù thủy là là lạc đạo
nghiêm trọng nhất.”
Một
trong những “Búa” nổi tiếng nhất là triết gia – luật sư Pháp Jean Bodin
(1529-96). Có lẽ ông ta là người đầu tiên thảo ra định nghĩa “hợp pháp” về một
phù thủy ~ “người đã biết luật của thiên chúa nhưng lại có những hành động với
sự đồng thuận của Quỷ”
Bodin
hữu hiệu ghê gớm trong việc truy tố những người bị nghi ngờ là phù thủy. Đích
thân hắn ta tra tấn những em nhỏ và những người tàn tật để moi ra những lời thú
tội, và tuyên bố rằng, thiêu sống những người bị kết án là phù thủy thì làm cho
chúng chết quá mau đi ~ không lâu hơn nửa tiếng đồng hồ. Năm 1580, vào cuối
cuộc đời, Bodin viết cuốn Demonomanie [Hành Động Ác Ôn Của
Quỷ]. Gay gắt và xảo quyệt hơn ngay cả đối với cuốn “Búa Phù Thủy” , cuốn đó được nhiều người đón nhận và được
nhiều người đọc.
Quan
án đạo ở Lorraine, Nicholas Remy, cùng thời với Bodin và, nếu không ngang hàng
trí tuệ với Bodin, thì chắc chắn là ngang hàng với hắn về bạo hành. Trong 15
năm xử án phù thủy hắn đã chịu trách nhiệm về sự hành quyết khoảng 900 người.
Khi
đứa con cả của hắn chết vào năm 1582, Remy nghi ngờ là do phù thủy làm, sau đó
lên án và kết án một người hành khất mà hắn đã đuổi đi trước khi con hắn chết
ít lâu. Remy giải thích: “Những phù thủy có cách xảo trá nhất để đánh thuốc
độc, vì tay của chúng đã thoa đầy thuốc độc, chúng nắm lấy quần áo của một
người và do đó gài vào để hại người đó.” Giống như Bodin, Remin về hưu với tư
cách một người danh giá và viết một cuốn sách kể lại kinh nghiệm của mình. Hắn
ta thú nhận, điều đáng tiếc nhất trong đời của hắn là hắn không giết được nhiều
hơn những con cái của phù thủy.
Trong
số những người đi săn phù thủy, người giết nhiều nhất là Giám mục dòng Tên
Peter Binsfeld ở Suffragan, Trier,
nước Đức, vào cuối thế kỷ 16. Hắn là người năng nổ truy tố phù thủy và nhấn
mạnh là tra tấn nhẹ là chẳng phải là tra tấn. Người ta cho rằng Binsfeld chịu
trách nhiệm về cái chết của 6500 đàn ông, đàn bà và trẻ con. Bản Luận Về Những Lời Thú Tội Của Những Ác Nhân và Phù
Thủy được
nhiều người cùng thời coi như là một tài liệu hợp pháp. Ít người dám cất lên
tiếng nói để chống đối nghiệp vụ đẫm máu về săn lùng phù thủy. Khi học giả Hà
Lan Cornelius Loos, khủng khiếp trước sự quá độ của Binsfeld trong việc cho
phép giết người theo phán quyết của hắn, toan tính phản đối nhân danh nhân
loại, thì ông ta bị lên án và phải công khai sửa sai trước quần chúng.
Sự
kiện là hầu hết những người săn lùng phù thủy thành thực tin vào sự chính đáng
của những công cuộc đeo đuổi giết người đó cũng không làm cho cái lôgíc tai ác
của họ, thiên kiến cực đoan và phương pháp bất nhân của họ kém kinh khủng đối
với chúng ta ngày nay.
Henri
Boguet (1550-1619), một luật sư người Pháp được biết là đã tiêu diệt khoảng 600
“phù thủy”, đã giúp kết án một người sùng tín căn cứ trên cây thánh giá bà ta
đeo trên chuỗi tràng hạt có một vết nhỏ trên đó ~ một dấu chỉ rõ ràng mà Boguet
nói rằng cái đó chứng tỏ là bà ta là đồng bọn với quỷ.
Pierre
de Lancre, viên chức săn lùng phù thủy trong vùng Basque của Vua Pháp Henry IV,
cũng giỏi trong việc dò ra được sự hiện diện của phe phái Satan. Vì những lý do
mù mờ có vẻ như liên hệ đến vấn đề tình dục, de Lancre tin rằng tất cả 30000
người dân (gồm cả các linh mục) trong địa phận Labourd đều là phù thủy.
Khi
người dân nghe được tin này, hàng ngàn người đã bỏ nhà chạy khỏi, một số di dân
xa đến tận Newfoudland để thoát khỏi cuộc truy tố không thể tránh được. Trong
vòng 4 tháng, de Lancre thiêu sống khoảng 600 người còn lại trong địa phận, rồi
hắn ta vinh quang trở lại Paris và được Vua Henry tạ ơn phong cho chức cố vấn
quốc gia.
Người
Anh săn lùng phù thủy nổi tiếng nhất là một luật sư thất bại, theo hệ phái
Thanh Giáo Tin Lành, tên là Matthew Hopkins. Không như các đồng nghiệp săn lùng
phù thủy, trong một thời gian ngắn vào thập niên 1640 hắn chỉ có thể giết vào
khoảng 600 người. Ngoài ra, vì một sắc lệnh của Quốc hội, hắn ta bắt buộc phải bỏ
phương pháp đầu tiên của hắn dùng để tìm ra phù thủy: ném những người bị nghi
ngờ là phù thủy đã bó chặt lại xuống sông xem có nổi hay không, nếu chúng nổi
thì đúng là phù thủy, vì quỷ đã đỡ chúng. [Lẽ dĩ nhiên không có ai nổi và sẽ bị
chết chìm]… Một trong những phương pháp hắn dùng thành công nhất là tra tấn tâm
lý: các nạn nhân bị bắt buộc phải đi không ngừng, không được ăn, ngủ cho đến
khi kiệt sức hay trở thành mê sảng, và thú nhận là phù thủy. 4
Trên
đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu về vài chi tiết của những
cuộc săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo. Hiển nhiên là tuyệt đại đa số tín đồ Ki
Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, không hề biết đến những trang sử đen tối
của Ki Tô Giáo nói chung. Vì vậy, họ vẫn hãnh diện tự cho là mình được ở trong
những “Hội Thánh Ki Tô”. Hi vọng ánh sáng của những sự thật lịch sử trong Ki Tô
Giáo sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về chính tôn giáo của họ, và từ đó sẽ có một thái
độ khác hơn, khiêm nhường hơn đối với những người phi Ki-Tô và các tôn giáo
khác, những tôn giáo mà lịch sử truyền đạo chưa từng bị vấy một giọt máu.
Để
kết luận, tôi xin trích dẫn nhận định của Aldous Huxley trong cuốn The Devis of Loudun, xuất bản năm 1952, một cuốn sử viết
về quỷ ám, mê tín và cuồng tín tôn giáo trong thế kỷ 17 ở Pháp, dựa trên những
biến cố trong tỉnh nhỏ Loudun. [It is a historical account of demonic
possession, superstition and religious fanaticism in seventeenth-century France, based on events
which took place in the small town of Loudun]:
Điều
đáng sợ nhất, và lố bịch nhất, là đầu óc của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo có thể
viện vấn đề “tâm linh” ra để biện minh cho những sự độc ác như vậy, cho bất cứ
nguyên nhân nào.
Sự
ngu xuẩn và mê tín của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo lên cao đến cực điểm vào thế
kỷ 17, được khuyến khích, xúi giục bởi giáo hội, vì giáo hội dạy rằng có quỷ ở
khắp nơi, và bất cứ hiện tượng nào khác lạ đều có thể là kết quả hành động của
quỷ. Mưa đá, gió lớn, rận chấy, sữa trở thành chua, hay một con lừa khó bảo đều
có thể quy trách cho người phụ nữ láng giềng. Tỏ ý nghi ngờ về sự hiện hữu của các
phù thủy thì có giá trị như chính mình là quỷ, và bất cứ người nào tỏ ý chống
đối đều bị nghi ngờ, canh chừng, và coi là phù thủy.
Sự
ám ảnh của Ki Tô Giáo về Quỷ và phù thủy thực sự đã cổ vũ và tăng gia sự đàn áp
của Ki Tô Giáo; và như là trước đây, ngày nay cũng vậy.
“Để
biện minh cho những hành động của họ, họ đã biến những lý thuyết của họ thành
những tín điều, những quy chế của họ thành những nguyên lý căn bản, những lãnh
đạo chính trị của họ thành những Thiên chúa, và tất cả những người không đồng ý
với họ đều là hiện thân của quỷ. Sự biến đổi để mà sùng bái cái tương đối thành
cái tuyệt đối, nhân bản thành thần bản, đã làm cho họ có thể say đắm trong
những tình cảm đam mê xấu xa đáng sợ nhất với một lương tâm yên ổn và trong
niềm tin chắc là đang phục vụ cho Thượng đế. Và khi những niềm tin đó tự chúng
trở thành ngu mê, thì một tập hợp những niềm tin mới sẽ được phát minh ra để
cho những sự điên rồ khi xưa có thể tiếp tục mang những bộ mặt quen thuộc của
tính hợp pháp, của lý tưởng, và của tôn giáo chân thật. 5
1.
Milton Meltzer, Witches and
Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New
York, 1999: A witchcraft craze lasting more than 400 years – from
the 14th through the 17th centuries – caused the deaths
of millions in Europe, the great majority of
them women. The craze arose in the Middle Ages and lasted well into the Age of
Reason. Long after, in the 20th century, the Nazi dictator, Adolf
Hitler, led an organized campaign of persecution – often called a witch-hunt –
of the Jews in Germany and Europe that led to the deaths of six million men, women,
and children.
The
Bible of witch-hunting appeared in 1486.. It was a book of great length called
the Malleus Maleficarum, or Hammer of
Witches. The first printed encyclopedia of magic and witchcraft, it was written
by two Dominician priests of Germany,
Heinrich Kramer and Jacob Sprenger.
Two
years earlier, Pope Innocent VIII had authorized the two priests to wipe out
witchcraft in Germany.
Their manual on persecution was a tool in the hand of every judge and
witch-hunter for three centuries. The Malleus was reprinted in 14 editions very
quickly. It became one of the most influential of all early printed books. The
Malleus begins by challenging the opinion that witches do not really exist. The
true faith, it says, “teaches us that certain angels fell from heaven and are
now devils” who “by their very nature…can do many wonderful things we cannot
do.” The authors state that Satan and demons can do harm by themselves, or by
acting with or through witches. It dealt in much detail with the practice of
witchcraft and with the judicial procedures to be used against it.
The
two priests spoke from experience, for they themselves had tried 50 people for
witchcraft, 48 of whom were women. The Malleus became the authoritative guide
to organized witch-hunting. The hunts were initiated, and carried out by church
and state…The Malleus told how to use torture to force confession and further
accusations. The common practice was to strip the accused naked, shave off all
her body hair, subject her to thumbscrew and the rack, to spikes and
bone-crushing devices, and to beat her and starve her.
When
the whirlwind of persecution descended in the 15th century, the toll
was immense. Nicholas Remy, a judge from Lorraine,
France,
who presided over witch trials, wrote that after spending much time grilling
witches, he knew that “they are justly to be subjected to every torture and put
to death in the flames.. and that its very awfulness may serve as an example
and a warning to others.” Remy sent between two and three thousand victims to
the stakes between 1595 and 1616…
Torquemada
(1420-1498), the Spanish churchman known as the Grand Inquisitor, is credited
personally with burning more than ten thousand people and with condemning
another 97 thousand in less than two decades.
For
12 years, from 1581 to 1593, witch persecutions raged through the cathedral
city of Trier in Germany. The bishop of Trier, Peter Binsfield,
ordered the death of some 6000 people..
In
the 1620s the area of Wurzburg,
Germany, saw
spectacular examples of wholesale extermination. The bishop of Wurzburg
burned 900 people for witchcraft…The archbishop of Trier burned 268 witches from 22 villages
between 1587 and 1593. In two of these villages, by 1595 only one woman was
left alive.
Jews
were another group that suffered especially during the height of the
witch-hunts. In the New Testament, John 8:44 calls the Devil the father of the
Jews. It is in Revelation 2:9 and 3:9 that the “synagogue of Satan” is first
mentioned. Church leaders accused Jews of worshiping Satan and giving their
children to the demons..
In
England,
under the Protestant rulers Henry VIII and Elizabeth I, persecution was severe.
And they were not the only Protestant rulers to break bones on the rack or
brand with hot irons. In the Netherlands,
too, the whip, steel pincers, and burning at the stake were much in evidence.
Martin
Luther, who lived from 1483 to 1546 and was the founder of Protestantism,
reinforced the superstition of his time. His writings testify to the Devil’s
assaults upon him, and he often refers to the evil actions of witches – among
them he includes his opponents. He thought the power of witches was awesome; he
once wrote, “I should have no compassion on these witches, I would burn all of
them.”
Spurred
on by the Malleus, Germany had the
worst history of witchcraft persecution, but other countries – France,
Switzerland, Sapin, Sweden, Scotland – all swelled the total number of murders.
When the terror reached its peak, doubters felt obliged to voice a belief in
witches. Denying the existence of witchcraft placed people in great danger of
themselves being accused.
2.
James A. Haught, Holy Horrors: An
Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books,
New York, 1990, p.73-76: During the 1400, the Holy Inquisition shifted its
focus toward witchcraft, and the next three centuries witnessed a bizarre orgy
of religious delusion. Agents of the Church tortured untold thousands of women,
and some men, into confessing that they flew through the sky on demonic
missions, engaged in sex with Satan, turned themselves into animals, made
themselves invisible, and performed supernatural evils. Virtually all the
accused were put to death.
Pope
Gregory IX originally authorized the killing of witches in the 1200s, and
random witch trials were held, but the craze didn’t catch fire until the 15th
century. In 1484 Pope Innocent VIII issued a bull declaring the absolute
reality of witches – thus it became heresy to doubt their existence.
Prosecutions soared. The inquisitor Cumanus burned 41 women the following year,
and a colleague in the Piedmont of Italy executed 100.
Soon
afterward, two Dominician inquisitors, Jakob Sprenger and Heinrich Kramer,
published their infamous Malleus
Maleficarum
(Withches’ Hammer) outlining a lurid litany of magical acts performed by
witches and their imps, familiars, phantoms, demons, succubi, and incubi. It
described how the evil women blighted crops, devoured children, caused disease,
and wrought spells. The book was filled with witches’ sexual acts and portrayed
women as treacherous and contemptible. “All witchcraft comes from carnal lust,
wich is in women insatiable,” they wrote. Modern psychology easily perceives
the sexual neusoris of these priests – yet for centuries their book was the
official manual used by the inquisitors sending women to horrible deaths.
Witch-hunts
flared in France, Germany, Hungary,
Spain, Italy, Switzerland,
Sweden, and nearly every
corner of Europe – finally reaching England,
Scotland,
and the Massachusetts Bay Colony. Most of the victims were old women whose
eccentricities roused suspicions of neighbors. Others were young, pretty women.
Some were men. Many in the continental Europe
were simply citizens whose names were shrieked out by torture victims when
commanded to identify fellow witches.
The
standard Inquisition procedure of isolating and grilling suspects was followed
– plus an added step: the victims were stripped naked, shaved of all body hair,
and “pricked”. The Malleus Maleficarum specified that every
witch bore a numb “devil’s mark”, which could be detected by jabbing with a
sharp object. Inquisitors also looked for “witches’ tits”, blemishes that might
be secrets nipples whereby the women suckled their demons.
If
the body search failed, the torture began. Fingernails were pulled out. Red-hot
tongs were applied to breasts. “The women’s sex organ provided special
attraction for the male torturer,” researcher Nancy Van Vuuren wrote. Bodies
were stretched on racks and wheels. “Arms came out of sockets and trysts with
the Devil came out of the unlikeliest mouths”, novelist Erica Jong wrote.
Virtually every mangled and broken victim confessed – and was executed on the
basis of the confession.
In
the Basque region of Spain,
church records dutifully report that Maria of Ituren admitted under torture
that she and sister witches turned themselves into horses and galloped through
the sky. In a district of France, 600 women confessed to copulating with
demons.
The
complete death toll is impossible to learn. Some historical records exist;
others are gone. Various accounts say 5000 witches were killed in the province of Alsace,
900 in the city of Bamberg, about 2000 in Bavaria, 311 in Vaud, 167 at grnoble, 157 at Wurzburg, 133 in a single day in Saxony.
Some entire villages were exterminated.
The
mania continued until the 18th century. In Scotland, an
old woman was burned in 1722 after being convicted of turning her daughter into
a pony and riding her to a witches’ coven. In Germany,
a nun was burned alive in the marketplace of Wurzburg in 1749 after other nuns testified
that she climbed over convent walls in the form of a pig. The last legal
execution of a witch occurred in Switzerland in 1782. By that time,
various scientists and scholars had raised enough doubt about the reality of
witchcraft to bring an end to the madness.
A
profound irony of the witch-hunts is that they were directed, not by
superstitious savages, but by learned bishops, judges, professors, and other
leaders of society. The centuries of witch obsession demonstrated the terrible
power of supernatural beliefs.
3.
Helen Ellerbe, The Dark Side Of
Christian History,
Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138: The Church created the elaborate
concept of devil worship and then, used the persecution of it to wipe out
dissent, subordinate the individual to authoritarian control, and openly
denigrate women…
It
took the Church a long time to persuade society that women were inclined toward
evil witchcraft and devil worship… In the 13th century the Church
began depicting the witch as a slave of the devil…
Pope
John XXII formalized the persecution of witchcraft in 1320 when he authorized
the Inquisition to prosecute sorcery. Thereafter papal bulls and declarations
grew increasingly vehement in their condemnation of witchcraft. In 1484 Pope
Innocent VIII issued the bull Summis Desiderates authorizing two inquisitores
Kramer and Sprenger, to systematize the persecution of witches. Two years later
their manual, Malleus Maleficarum, was published with
14 editions following between 1487-1520 and at least 16 editions between
1574-1669. A papal bull in 1488 called upon the nations of Europe to rescue the
Church of Christ which was “imperiled by the arts
of Satan”. The papacy and the Inquisition had successfully transformed the
witch from a phenomenon whose existence the Church had previously rigorously
denied into a phenomenon that was deemed very real, very frightening, the
antithesis of Christianity, and absolutely deserving of persecution.
It
was now heresy not to believe in the existence of witches. As the authors of
the Malleus Maleficarum noted, “A belief that there are such things as witches
is so essential a part of Catholic faith that obstinately to maintain the
opposite opinion savors of heresy.” Passage in the Bible such as “Thou shalt
not suffer a witch to live” were cited to justify the persecution of witches.
Both Calvin and Knox believed that to deny witchcraft was to deny the authority
of the Bible. The 18th century founder of Methodism, John Wesley,
declared to those skeptical of witchcraft, “The giving up of witchcraft is in
effect the giving up of the Bible. And an eminent English lawyer wrote, “To
deny the possibility, nay, actual existence of witchcraft and sorcery, is at
once flatly to contradict the revealed word of God in various passages both of
the Old and New Testament.
The
persecution of witchcraft enabled the Church to prolong the profitability of
the Inquition. The Inquisition had left regions so economically destitute that
the inquisitor Eymeric complained, “In our days there are no more rich
heretics..it is a pity that so salutary an institution as ours should be so
uncertain of its future.” By adding witchcraft to the crimes it persecuted,
however, the Inquisition exposed a whole new group of people from whom to
collect money. It took every advantage of this opportunity. The auther Barbara
Walker notes:
“Victims
were charged for the the very ropes that bound them and the wood that burned
them. Each procedure of torture carried its fee. After the execution of a
wealthy witch, officials usually treated themselves to a banquet at the expense
of the victim’s estate”
In
1592 Father Cornelius Loos wrote:
“Wretched
creatures are compelled by the severity of the torture to confess things they
have never done.. and so by the cruel butchery innocent lives are taken; and,
by a new alchemy, gold and silver are coined from human blood.”
4.
Malise Ruthven, Torture: The Grand
Conspiracy,
Weidenfeld and Nicolson, London,
p. 119:
The
bible of these macabre killers was the infamous Malleus Maleficarum (Hammer of Witches), a book written
by two fanatical Dominican priests and published in 1486. For the book's
authors no deceit was too devious, no torture too extreme to be used in the
pursuit of confessions. Nor was there any room for skepticism or moderation;
"Not to believe in witchcraft," read the book's motto, "is the
greatest of heresies."
One
of the most famous of the Malleus was the French lawyer-philosopher Jean Bodin
(1529-96). Possibly the first to formulate a "legal" definition of a
witch ~ "someone, who, knowing God's laws, tries to bring about some act
through an agreement with the Devil"
Bodin
was hideously efficient in his prosecution of suspected witches. He personally tortured
young children and invalids in the effort to extract confessions, and
proclaimed that burning condemned witches brought death too quickly ~ in not
much more than half an hour. In 1580, towards the end of his life, Bodin wrote
a book of his own, Demonomanie. Harsher and more
insidiously circumstantial even than the Malleus, it was well received and
widely read.
The
inquisitor of Lorraine,
Nicholas Remy, was Bodin's contemporary and, if not his intellectual equal,
certainly his persecutional peer. During 15 years of judging witchcraft cases
he was responsible for the execution of approximately 900 people.
When
his eldest son died in 1582, Remy inevitably suspected witchcraft, later
accusing and condemning a beggar whom he had turned away shortly before his
son's death. As Remy explained, "Witches have a most treacher manner of
applying their poison, for having their hands smeared with it, they take hold
of...a man's garment as it were to entreat and propitiate him." Like
Bodin, Remy retired an honoured man and wrote a book about his experiences. His
main regret in life, he confessed, was that he did not kill more witch
children.
By
far the most lethal of the witch hunters was Jesuit-trained Peter Binsfeld,
Suffragan Bishop of Trier, Germany, in the late 16th century.
A
relentless witch prosecutor who insisted that "light" torture
amounted to no torture at all. Binsfeld is said to have been responsible for
the deaths of about 6,500 men, women and children.
His
Treatise on Confessions by Evildoers
and Witches
was considered by many of his contemporaries to be one of the great legal works
of it's day. Few voices were raised in opposition to the bloody business of
witch hunting. When Dutch scholar Cornelius Loos, horrified at the enormity of
Binsfeld judicially sanctioned murders, attempted to protest in the name of
humanity, he was condemned and made to recant publicly.
The
fact that most of the witch hunters sincerely believed in the rightness of
their murderous pursuits does not make their perverse logic, immoderate
prejudice and inhumam methods any less horrifying today.
Henri
Bogeut (1550-1619), a French lawyer credited with exterminating about 600
"witches", was, for example, able to help condemn one pious suspect
on the grounds that the crucifix she wore on her rosary had a minute flaw in it
~ a clear indication, said Boguet, that she was in league with the devil.
Pierre
de Lancre, French King Henry 1V's official witch hunter in the Basque country,
was equaly skilled at detecting the presence of of Satanism. For reasons that
are obscure but that seem to have had morbid sexual undertones, de Lancre
became convinced that all 30,000 (including priests) inhabitants of the Labourd
district were witches.
When
news of de Lancre's conclusions became known, thousands fled their homes, some
emigrating as far as Newfoundland
to escape the inevitable conflagration. In the space of four months de Lancre
burned some 600 of the people who remained, then returned to Paris in triumph to be made state counselor
by a grateful King Henry.
The
most notorious of the English witch hunters was a puritanical, failed lawyer
named Matthew Hopkins.
Unlike
some of his counterparts on the Continent, Hopkins, who flourished for a
relatively brief period in the 1640s, only managed to kill about 600 people. In
addition, because of a parliamentary decree, he was obliged to forgo his early
method of identifying witches ~ throwing the suspects, trussed, into a river to
see if they floated, if they did they were considered guilty, as the devil was
supporting them…
One
of the methods he used most successfully was a form of psychogical torture, in
which victims were forced to walk constantly, without food or sleep, until,
exhausted or delirious, they confessed to witchcraft.
5.
(Aldous Huxley, The Devils of Loudun, 1952, Harper and
Brothers, N.Y.): The scariest part is the fundamentalist mind that could
justify such cruelty, for any cause, most ironically, a 'spiritual' one.
Fundamentalist
ignorance and superstition reached a peak in the 1600's, instigated by the
church, who taught that the Devil was everywhere, and that any undesireable
manifestation could be and probably was the result of witchcraft and devils.
Hail, wind, lice, sour milk, or a difficult mule could all be blamed on the
woman next door. Expressing doubt about the existence of witches was tantamount
to being a witch, and anyone voicing opposing opinions was suspect, to be
watched, and targeted.
The
Christian obsession with the Devil and witchcraft actually fostered and
propagated what they tried so hard to repress; and as it was then, it is today.
"In
order to justify their behavior, they turn their theories into dogmas, their
bylaws into First Principles, their political bosses into Gods and all those
who disagree with them into incarnate devils. This idolatrous transformation of
the relative into the Absolute and the all too human into the Divine, makes it
possible for them to indulge their ugliest passions with a clear conscience and
in the certainty that they are working for the Highest Good. And when the
current beliefs come, in their turn, to look silly, a new set will be invented,
so that the immemorial madness may continue to wear its customary mask of
legality, idealism, and true religion."
Tài Liệu Tham Khảo:
AI
= Arthur Frederick Ide, Unzipped The
Popes Bare all: A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican, AAP, Inc., Austin, Texas,
1987.
BB
= Joanne Carlson Brown & Carole R. Bohm, Editors, Christianity, Patriarchy, and Abuse: A Feminist
Critique,
The Pilgrim Press, Cleveland,
Ohio, 1989.
EB
= Ernie Bringas, Going By The Book,
Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads
Publishing Company, Inc., Charlottesville, VA, 1996.
GW
= Gary Wills, Papal Sin, Doubleday,New York,
2000
HE
= Helen Ellerbe, The Dark Side of
Christian History,
Morningstar and Lark, Orlando,
FL., 1995
I
= Internet, Tài liệu trên Internet
JD
= John Dollison, Pope-Pouri, A Fireside Book, New York, 1994
JH
= James A. Haught, Holy Horrors: an
Illustrated History of Religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990.
JS
= John Shelby Spong, Rescuing the
Bible From Fundamentalism: A Bishop rethinks The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991.
MM
= Milton Meltzer, Witches and
Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999.
MR
= Malise Ruthven, Torture: The Grand
Conspiracy,
Weidenfeld and Nicolson, London,
p. 119
NC
= Norman Cohn, Europe’s Inner Demons, Paladin Book,
Sussex University Presss, Great Britain, 1975
PR
= Peter de Rosa, Vicars of Christ: The
Dark Side of the Papacy, Crown Publishers, Inc., New York, 1988.
TQN
= Trần Quý Nhu, Búa Phù Thủy [Chuyển ngữ từ cuốn
Malleus Maleficarum của hai linh mục Heinrich Kramer và James Sprenger], Giao
Điểm, 2003.
UH
= Uta Ranke-Heinemann, Eunuchs For The
Kingdom of Heaven,
The Book that accuses the Roman Catholic Church of degrading women and
undermining the sexuality of believers, Penguin Books, New York, 1990.
3.5. NÚI TỘI ÁC THỨ MĂM CỦA CÔNG GIÁO:
GÂY HẬN THÙ VÀ BÁCH HẠI NGƯỜI DO THÁI
Khi
nói đến vấn đề bách hại người Do Thái, thường chúng ta nghĩ ngay đến lò “thiêu
người tập thể” (Holocaust) của Đức Quốc Xã (Nazis). Tuy nhiên, những lò “thiêu
người tập thể” này chỉ là sự tiếp nối và là giai đoạn cuối của chính sách kỳ
thị và bách hại người Do Thái của Ki Tô Giáo, mới đầu là Ca Tô Giáo (Công giáo)
trong mấy thế kỷ đầu, rồi sau đó, từ thế kỷ 16, song hành với Tin Lành. Chính
sách kỳ thị và bách hại người Do Thái được thi hành qua ba chủ trương: cưỡng
bức cải đạo; cưỡng bức cải đạo không được thì trục xuất; trục xuất không được
thì giết. Vậy 6 triệu sinh mạng Do Thái bị hủy diệt bởi Đức Quốc Xã ở Âu Châu
trong Thế Chiến thứ hai, xảy ra trong các nước Ki Tô Giáo ở Âu Châu như Đức,
Pháp, Ý, Ba Lan, Tiệp Khắc v..v.., và vô số sinh mạng Do Thái bị hủy diệt bởi
Ki Tô Giáo trong các cuộc Thập Ác Chinh, trong các Tòa Án Xử Dị Giáo v..v..,
tất cả đều nằm trong giai đoạn cuối của chính sách chống Do Thái của Ki Tô
Giáo.
Thật
vậy, học giả nổi tiếng Raul Hillberg, chuyên gia nghiên cứu về Holocaust, đã
viết trong cuốn “Sự Tiêu Diệt Những
Người Do Thái Âu Châu” (The Destruction of the European Jews, Holmes &
Meier, New York, 1985), pp 7f, như sau:
Từ thế kỷ thứ 4
đã có ba chính sách chống Do Thái: cưỡng bức cải đạo, trục xuất khỏi xứ, và hủy
diệt. Chính sách thứ hai là chính sách thay thế cho chính sách thứ nhất khi
chính sách này không thành công, và chính sách thứ ba cũng là để thay thế cho
chính sách thứ hai… Những nhà truyền giáo Ki Tô Giáo đã chẳng từng nói: Các
ngươi không có quyền sống giữa chúng tôi như là người Do Thái [nghĩa là phải cải
đạo thành tín đồ Ki Tô và mất đi căn cước Do Thái]. Các nhà cai trị thế tục [thường là ở dưới
thần quyền hay cai trị song song với thần quyền] tuyên bố: Các người không có quyền sống cùng với
chúng tôi [nghĩa
là phải bị trục xuất ra khỏi xứ, thí dụ, theo đề nghị của Marin Luther v..v..]. Sau cùng, Đức Quốc Xã ra nghị định: Các người không
được quyền sống [do
đó thực hiện “Giải pháp cuối cùng” (Final solution), nghĩa là tận diệt người Do
Thái]
Quá trình này
bắt đầu bằng toan tính lùa người Do Thái vào Ki Tô Giáo. Một sự phát triển
chính sách được tiếp nối để cưỡng bách trục xuất những nạn nhân. Và cuối cùng
là lùa người Do Thái vào chỗ chết. Như vậy, Đức quốc xã (Nazis) không dẹp bỏ quá khứ [chống Do Thái của Ki
Tô Giáo] mà được xây dựng trên đó,
không bắt đầu sự phát triển chính sách chống Do Thái mà là hoàn tất chính sách
đã có.
[Since
the fourth century after Christ there have been three anti-Jewish policies:
forced conversion, expulsion, annihilation. The second appeared as an alternative
to the first, and the third emerged as an alternative to the second… The
missionaries of Christianity had said in effect: You have no right to live
among us as Jews. The secular rulers who followed proclaimed: You have no right
to live among us. The Nazis at last decreed: You have no right to live.
The
process began with the attempt to drive the Jews into Christianity. The
development was continued in order to force the victims into exile. It was
finished when the Jews were driven to the death. The German Nazis, then, did
not discard the past; they built upon it. They did not begin a development;
they completed it.]
John
Cornwell, một học giả Ca-Tô, viết trong cuốn “Giáo Hoàng Của Hitler” (Hitler’s Pope):
“Vào khoảng
giữa năm 1997, tôi ở trong tình trạng bị một cú “sốc” về đạo lý. Những tài liệu
tôi thu thập được không thể dùng được để miễn trách nhiệm [cho Giáo hoàng Pius
XII] mà là một bản cáo trạng còn gây
tai tiếng hơn là bản cáo trạng của Hoshhuth [Rolf Hoshhuth là người đã chỉ
trích Pius XII. Bằng chứng thật là mạnh mẽ. Lần đầu tiên nó chứng tỏ Pacelli [tên tục của Pius
XII]], qua chính những lời của ông ấy,
là một người chống Do Thái có môn bài. Nó chứng tỏ rằng ông ta đã giúp cho
Hitler lên cầm quyền và cùng lúc phá ngầm khả năng kháng chiến của Ca Tô Giáo ở
Đức. Nó chứng tỏ rằng ông ta ngụ ý phủ nhận và tầm thường hóa những lò sát sinh
của Đức Quốc Xã dù rằng ông ta đã biết rõ nội vụ. Và tệ hơn cả, ông ta là một
người đạo đức giả, vì sau khi đệ nhị thế chiến chấm dứt ông ta lại mang danh không
xứng đáng là người đã công khai chống sự bạo hành của Nazi.”
(By
the middle of 1997, I was in a state of moral shock. The material I had
gathered amounted not to an exoneration but to an indictment more scandalous
than Hochhuth's. The evidence was explosive. It showed for the first time that
Pacelli was patently, and by the proof of his own words, anti-Jewish. It
revealed that he had helped Hitler to power and at the same time undermined
potential Catholic resistance in Germany. It showed that he had implicitly
denied and trivialized the Holocaust, despite having reliable knowledge of its
true extent. And, worse, that he was a hypocrite, for after the war he had
retrospectively taken undue credit for speaking out boldly against the Nazis’
persecution.)
Và
Sam Harris, trong cuốn sách mới xuất bản, Thư Cho Một Quốc Gia Ki Tô (Letter
To A Christian Nation, Alfred A. Knopf, New
York, 2006), đã viết, trang 41-42:
Hãy xét đến
những lò thiêu sống tập thể của Đức Quốc Xã: chủ nghĩa chống Do Thái dựng lên
những trại tử thần của Nazi là thừa hưởng trực tiếp chính sách của Ki Tô Giáo
thời Trung Cổ. Trong nhiều thế kỷ, những người Âu Châu Ki Tô đã coi những người
Do Thái như là những giống người lạc đạo tệ mạt nhất và gán cho sự hiện diện
của người Do Thái trong đám tín đồ Ki Tô là nguyên nhân của mọi điều xấu xa
trong xã hội… Chính Vatican đã thường xuyên quy tội cho người Do Thái giết Chúa
trong báo chí của Vatican cho tới năm 1914. Và
cả hai giáo hội, Ca-Tô cũng như Tin Lành, đều có một thành tích ô nhục đồng lõa
trong chính sách diệt chủng dân Do Thái.
(Consider
the Holocaust: the anti-semitism that built the Nazi death camps was a direct
inheritance from medieval Christianity. For centuries, Christian Europeans had
viewed the Jews as the worst species of heretics and attributed every societal
ill to their continued presence among the faithful… The Vatican itself
perpetuated the blood libel in its newspapers as late as 1914. And both
Catholic and Protestant churches have a shameful record of complicity with the
Nazi genocide.)
Từ
vài tài liệu trên trong vô số tài liệu về sự liên hệ giữa chính sách chống Do
Thái của Ki Tô Giáo và lò sát sinh của Đức Quốc Xã, ngày nay không ai còn có
thể phủ nhận sự liên hệ ô nhục giữa một tôn giáo, Ki Tô Giáo, và một chính
quyền thế tục, Đức Quốc Xã, đưa đến kết quả là 6 triệu người Do Thái đủ mọi lứa
tuổi bị giết không thương tiếc. Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu thêm vào Núi Tội Ác
Thứ Năm của Ca-Tô Giáo Rô-Ma: Bách hại người Do Thái.
Nghiên
cứu lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng, những chính sách chống Do Thái là những sản
phẩm đặc thù của Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, được chế tạo ra từ những đầu óc
thuộc loại cuồng tín cùng cực hẹp hòi thuộc thời bán khai của một số Giáo hoàng
như Innocent III; của một số “Thánh” Ca Tô như Paul (Phao Lồ), John (Giăng)
trong Tân ước; của một số “Thánh thượng phụ” Công Giáo như Chrysostom, Bernard,
Augustine; và của những nhà lập giáo Tin Lành như Martin Luther, John Calvin
v..v.. Cuồng tín hẹp hòi vì chỉ dựa vào một vài câu viết bậy trong Tân ước mà
vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa”, nếu Chúa toàn năng, toàn trí của họ
có thể bị giết bởi người thường.
Trước
khi trích dẫn những “lời nói kỳ thị, nguyền rủa” của các vị trên về người Do
Thái, chúng ta hãy điểm qua một số ý kiến của các học giả về sự liên hệ giữa
chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo và những lò “thiêu người tập thể” của
Đức Quốc Xã.
Trước
hết chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn “Một
Mặt Đen Tối Của Lịch Sử: Chính Sách Chống Do Thái Qua Các Thời Đại” (A Dark Side of
History: Antisemitism Through The Ages, Anti-Defamation League, 2000) của
Jerome A. Chanes, đã viết như sau, trang 11:
Tác giả Ca Tô
Giáo Rô-ma (Roman Catholicism) có tên tuổi, Malcolm Hay, đã viết cho Jules
Isaac cách đây 40 năm như sau: “Auschwitz (Nơi thiêu người tập thể kinh khủng
nhất của Đức Quốc Xã) không thể nào
thực hiện được nếu không có những lời nói láo độc địa mà các Giáo hội Ki Tô đã
làm nhiễm độc các dân tộc Ki Tô trong ít nhất là 1600 năm” [Trg. 11]
Không quá 40
năm trước đây, nghiên cứu những chủ đề và những tài liệu về chống Do Thái của
Ki Tô Giáo thường bị coi là điều cấm kỵ. Trong những năm gần đây, những nghiên
cứu về Holocaust, do tinh thần thảo luận cởi mở trong các giáo hội Ki Tô, đã
phanh phui ra vai trò cốt yếu của Giáo hội trong chính sách bạo hành những
người Do Thái sống trong những xứ Ki Tô. [Trg. 29]
(The
distinguished Roman Catholic author Malcolm Hay wrote to Jules Isaac 40 years
ago that “Auschwitz would have been impossible had it not been for the
poisonous lies with which the churches have infected Christian populations for
at least 1600 years.”)
No
more than 40 years ago, the subjects of Christian antisemitism and the
Christian sources of antisemitism were generally considered taboo.
In
recent years, research on the Holocaust, together with a growing tolerance for
discussion within the churches, has revealed the crucial role played by the
Church in the persecution of Jews in Christendom.)
Thái độ của
Luther chẳng bao lâu trở thành chống Do Thái một cách hiển nhiên. Năm 1542,
Luther phát tán một tờ truyền đơn, “Về người Do Thái và nhưng lời nói láo của
họ”, tiếp theo là một tiểu luận khác trong đó ông ta chỉ trích gắt gao bằng
loại ngôn từ không kém độc địa như những lời đã đã từng đưa ra đối với người Do
Thái từ trước hoặc sau đó. Luther, với lời lẽ vừa châm biếm vừa tục tĩu, nhắc
lại mọi luận điệu lên án Do Thái từ trước, với những điều chúng ta đã quen
thuộc: Người Do Thái là những kẻ bỏ thuốc độc [vào giếng nước]; nhũng kẻ cho vay nặng lãi; những ký sinh trùng trong
xã hội Ki-Tô; song hành với Satan; những kẻ bị đầy đọa xuống hỏa ngục. Trong
những bản văn của Luther, một hình ảnh cũ được đưa ra: Do Thái là những kẻ
”chống-Chúa.” Luther không để cho những độc giả của ông ta tự tưởng tượng ra
những điều ông ta quan niệm về một chương trình đối xử với người Do Thái. Ông
ta vạch rõ: cần phải đốt sập những giáo đường Do Thái, tịch thu sách vở Do
Thái, cưỡng bách người Do Thái phải lao động chân tay cực nhọc, tốt hơn nữa,
cần phải trục xuất người Do Thái ra khỏi những đất đai của họ.
(p.105:
Luther’s attitude toward the Jews became one that before too long was blatantly
antisemitic. In 1542, Luther published a tract, Concerning the Jews and Their Lies, soon followed by
another essay, which excoriated the Jews in Language that equaled in virulence
anything uttered against them before or since. Luther, in language both
sarcastic and scatological, renewed all the old charges of the past,
perpetuating patterns with which we have become familiar during the course of
these talks: Jews are poisoners; Jews are usurers; Jews are parasites on
Christian society; Jews consort with Satan himself; Jews are doomed to Hell. In
Luther’s writings a new locution of an old image of the Jew emerged: the Jew as
“Anti-Christ”
Luther
did not leave to his readers’ imagination what he conceived as the appropriate
agenda to deal with the Jews. He was quite explicit: their synagogues should be
burned, their books seized; they should be forced into back-breaking manual
labor; better still, they should be expelled from their territories.)
Theo sử gia
Lucy Dawidowics, “Người ta có thể dễ dàng kéo một đường chống Do Thái thẳng từ
Martin Luther tới Adolf Hitler”. Cả Luther và Hitler đều bị ám ảnh bởi một vũ
trụ quỷ sứ mà người Do Thái sống trong đó. Khi chúng ta duyệt lịch sử chống Do
Thái trong thế kỷ 20 ở Tây Âu, chúng ta nhận ra rằng có một chuỗi xích quan
niệm và triết lý nối sự Cải Cách của Ki Tô Giáo và sự nổi giậy của chủ nghĩa
Hitler.
(p
151: According to historian Lucy Dawidowics, “A line of antisemitism descent
from Martin Luther to Adolf Hitler is easy to draw” Both Luther and Hitler were
obsessed by a demonologized universe inhabited by Jews. As we trace the history
of antisemitism to 20th century Western Europe,
we note that there is a direct conceptual and philosophical chain connecting
the Christian Reformation and the rise of Hitlerism.)
Tiến
sĩ Michael L. Brown, Khoa Trưởng Trường Cao Cấp về Thần học tại Gaithersburg,
Maryland, USA, trong cuốn "Bàn
tay của chúng ta dính nhơ đầy máu" (Our Hands are Stained With Blood, Messiah
Biblical Institute, MD, 1992, p. 7) viết với nhiều chi tiết về chương trình đối
xử với người Do Thái của Martin Luther như sau:
"Thứ nhất,
phải đốt sạch những giáo đường Do Thái... Thứ nhì, nhà cửa của họ cũng phải
thiêu hủy...Thứ ba, họ không được giữ những cuốn kinh cầu nguyện và Thánh kinh
Do Thái. Thứ tư, phải cấm những giáo sĩ của họ giảng đạo nếu không sẽ bị xử tội
chết... Thứ năm, những quyền lợi về giấy thông hành và du hành của những người
Do Thái phải tuyệt đối cấm. Thứ sáu, họ phải ngưng lấy lãi khi cho vay
tiền...Thứ bảy, hãy cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa,
búa dìu, cuốc, thuổng để chúng kiếm ăn bằng mồ hôi trên mũi chúng.. Chúng ta
phải trục xuất bọn nhãi ranh lười biếng trên ra khỏi hệ thống của chúng ta. Như
vậy là đuổi chúng cút đi chỗ khác.
Nói tóm lại,
các ông hoàng và nhà quý phái thân yêu mà có người Do Thái trong các xứ của
mình, nếu lời khuyên này của tôi không hợp với các người, thì các người hãy tìm
một cách tốt hơn để quý vị và tôi không còn phải mang cái gánh nặng không thể
chịu đựng được nữa của những kẻ gian ác – người Do Thái"
(First,
their synagogues should be set on fire.. Secondly, their homes should likewise
be broken down and destroyed...Thirdly, they should be deprived of their
prayer-books and Talmuds...Fourthly, their rabbis must be forbidden under
threat of death to teach any more...Fiftly, passport and traveling privileges
should be absolutely forbidden to the Jews...Sixthly, they ought to be stopped
from usury (charging interest on loans)...Seventhly, let the young and strong
Jews and Jewesses be given the flail, the ax, the hoe, the spade...and let them
earn their bread by the sweat of their noses...We ought to drive the rascally
lazy bones out of our system.. Therefore away with them.
To
sum up, dear princes and nobles who have Jews in your domains, if this advice
of mine đoes not suit you, then find a better one so that you and we may all be
free of this insufferable devilish burden – the Jews)
Trong
một đoạn khác, tiến sĩ Brown viết, trang 7:
"Ki Tô
Giáo không tạo ra sự hủy diệt tập thể dân Do Thái [của Đức Quốc Xã], nhưng Ki Tô Giáo đã làm cho sự hủy diệt trên thành
hình. Không có sự chống Do Thái của Ki Tô giáo, người ta không thể quan niệm
nổi một chính sách hủy diệt như vậy. Hitler và những đảng viên quốc xã đã tìm
thấy trong pháp chế chống Do Thái của Công giáo trong thời Trung Cổ một mẫu mực
hành dộng cho chính họ, và họ in lại những văn kiện chống Do Thái độc địa của
Martin Luther. Chúng ta nên biết chính sách hủy diệt tập thể này chỉ được gây
ra bởi một nước lớn ở Âu châu trong đó số tín đồ Công giáo và Tin Lành xấp xỉ
bằng nhau. Cả hai tôn giáo trên đều chứa đầy sự thù hận người Do Thái.
Trong gần 2000
năm, thế giới Ki Tô đã tàn nhẫn làm mất nhân tính của người Do Thái khiến cho
chính sách hủy diệt tập thể, kết quả chung cùng của sự làm mất nhân tính này,
có thể thành tựu.
Trong những năm
dài, đen tối của thời Trung Cổ, người Do Thái thường được phép chọn: rửa tội
hoặc bị trục xuất, rửa tội hoặc bị tra tấn, rửa tội hoặc là chết"
(Christianity
did not create the Holocaust; indeed Nazism was anti-Christian, but it made it
possible. Without Christian antisemitism, the Holocaust would have been
inconceivable...Hitler and the Nazis found in medieval Catholic anti-Jewish
legislation a model for their own, and they read and reprinted Martin Luther's
virulently antisemitic writings. It is instructive that the Holocaust was
unleashed by the only major country in Europe
having approximately equal numbers of Catholics and Protestants. Both
traditions were saturated with Jew-hatred.
For
nearly 2000 years, the Christian world relentlessly dehumanized the Jew,
enabling the Holocaust, the ultimate consequence of this dehumanization, to
take place.
During
the long, dark years of the Middle Ages, Jews were frequently given the option
of baptism or expulsion, baptism or torture, baptism or death )
Một
tài liệu khác trên Internet cho chúng ta biết thêm chi tiết về con người của
Martin Luther đối với người Do Thái:
“Đây là một
phần những gì Luther viết vào năm 1543. Nên để ý là có vẻ như Adolf Hitler đã
dùng chúng như là sự chỉ đạo tổng quát để áp dụng giai đoạn đầu tiên trong
“giải pháp cuối cùng” đối với người Do Thái:
“Hãy để tôi cho
các người những lời khuyên chân thật của tôi;
Thứ nhất, hãy
đốt sạch mọi giáo đường hay trường học của chúng và chôn vùi chúng dưới lòng
đất những gì không thể đốt được, để cho không ai có thể thấy được một viên đá
hay một mảnh than cháy dở. Phải thực hành điều này để vinh danh Chúa của chúng
ta và cho tập thể người Ki Tô.
Thứ nhì, hãy
phá hủy triệt hạ nhà của chúng.
Thứ ba, phải
cướp đi mọi kinh cầu nguyện, và kinh Talmud mà những điều viết trong đó có
những lời nói láo, nguyền rủa, phỉ báng và thờ thần tượng.
Thứ tư, phải
cấm không cho những thầy tu Do Thái giảng đạo nếu không sẽ bị hành quyết và
chặt chân tay.
Thứ năm, phải
cấm tuyệt không cho chúng du hành tự do trên các trục giao thông. Vì chúng
không có nhiệm vụ gì ở các vùng quê, vì chúng không phải là những lãnh chúa,
viên chức chính quyền, thương gia v..v.. Hãy bắt chúng ở yên trong nhà [Nhà nào ?? Sau khi
đã phá hủy và triệt hạ nhà của người Do Thái trong “lời khuyên” thứ hai]
Thứ sáu, phải
cấm chúng hành nghề cho vay lãi, và phải tịch thu mọi tiền bạc, vàng bạc quý
giá của chúng, giữ riêng nơi an toàn [ai giữ riêng??]
Thứ bảy, hãy
cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa, búa dìu, cuốc,
thuổng để chúng kiếm sống bằng mồ hôi trên lông mày chúng.”
(
Here in part is what Luther wrote in C.E. 1543. Note that Adolf Hitler seemed
to use it as a general guide for implementing the earlier phase of his
"final solution" against the Jews:
Let
me give you my honest advice:
First,
to set fire to their synagogues or schools and to bury and cover with dirt
whatever will not burn, so that no man will ever again see a stone or cinder of
them. This is to be done in honor of our LORD and of Christendom.
Second,
I advise that their houses also be razed and destroyed.
Third,
I advise that all their prayer books and Talmudic writings, in which such
idolatry, lies, cursing, and blasphemy are taught, be taken from them.
Fourth,
I advise that their rabbis be forbidden to teach henceforth on pain of loss of
life and limb.
Fifth,
I advise that safe conduct on the highways be abolished completely for the
Jews. For they have no business in the countryside, since they are not lords,
officials, tradesmen, or the like. Let them stay at home.
Sixth,
I advise that usury be prohibited to them, and that all cash and treasure of
silver and gold be taken from them, and put aside for safe keeping.
Seventh,
I recommend putting a flail, an ax, a hoe, a spade, a distaff, or a spindle
into the hand of young, strong Jews and Jewesses and letting them earn their
bread in the sweat of their brow.)
Linh
mục David R. Mason, Giáo sư về tôn giáo, đại học John Carroll ở Cleveland, Ohio,
viết , trang 27: (Anti-Semitism, Mark McKain, Editor,
Green Haven Press, MI 2005)
Không còn nghi
ngờ gì là lò thiêu sống tập thể người Do Thái trong những thập niên 1930 vá
1940 ít nhất cũng là một phần kết quả trực tiếp của 2000 năm người Ki-Tô chống
Do Thái. Hơn nữa, sự lương thiện trí thức đòi hỏi rằng căn nguyên của những lời
phỉ báng chống Do Thái của Ki Tô Giáo thì nằm trong chính cuốn Tân Ước, đặc
biệt là những Phúc Âm..
(There
can be little doubt that the Holocaust of the Jews in the 1930’s and 1940’s is,
at least partially the direct result of 2000 years of Christian anti-Judaism.
Moreover, honesty demands that the root of much Christian anti-Jewish slander
be located in the New Testament itself, especially the Gospels…)
Và
học giả Eliezer Berkovits, viết trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era),
về “sự phá sản đạo đức của nền văn
minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy
of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion)
như sau, trang 287:
“Sau 19 thế kỷ
của Ki Tô Giáo, sự hủy diệt 6 triệu người Do Thái, trong đó có một triệu rưỡi
là trẻ con, được thi hành với máu lạnh ngay trong lòng của Ki Tô giáo ở Âu Châu
, được khuyến khích bởi sự im lặng tội lỗi của hầu như toàn thể thế giới Ki Tô
Giáo, gồm cả một “Đức Thánh Cha” không thể sai lầm ở La Mã, đó chính là kết quả
tất nhiên của sự phá sản. Có một đường thẳng kéo dài từ hành động áp bức đầu
tiên đối với người Do Thái và đạo Do Thái vào thế kỷ 4 cho đến các lò “giết
người tập thể” trong thế kỷ 20.”
(After
19 centuries of Christianity, the extermination of 6 million Jews, among them
one-and-a-half million children, carried out in cold blood in the very heart of
Christian Europe, encouraged by the criminal silence of virtually all
Christendom, including that of an infallible Holy Father in Rome, was the natural culmination of this
bankrupcy. A straight line leads from the first act of oppression against Jews
and Judaism in the fourth century to the holocaust in the twentieth.)
Chính
sách diệt chủng Do Thái của Ki Tô Giáo là một sự kiện bất khả phủ bác. Chính
Giáo Hoàng John Paul II cũng đã thú nhận núi tội ác này của Ca Tô giáo. Đúng
vậy, năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II đến thăm viếng Do Thái, bày tỏ lòng tôn
kính đối với những nạn nhân Holocaust của Đức quốc Xã, và để lại giữa những
tảng đá cổ của bức tường phía Tây Jerusalem lời cầu nguyện sau đây:
“Thiên Chúa của
cha chúng tôi, Ngài đã chọn Abraham và những hậu duệ của ông ta để mang tên
Ngài tới những quốc gia: chúng con vô cùng sầu thảm về những hành động của
những người trong dòng lịch sử đã làm cho con cái của Ngài đau đớn, và xin Ngài
tha thứ , chúng con ước mong sẽ dấn thân trong cuộc tạo tình anh em chân thật
với dân tộc mà Ngài đã giao ước.”
(Pope
John Paul II visits Israel.
He pays tribute to the victims of the Holocaust, and he leaves the following
prayer between the ancient stones of the Western Wall in Jerusalem:
“God
of our fathers, you chose Abraham and his descendants to bring your Name to the
Nations: we are deeply saddened by the behavior of those who in the course of
history have caused these children of yours to suffer, and asking your
forgiveness, we wish to commit ourselves to genuine brotherhood with the people
of the Covenant.”)
Những người
trong dòng lịch sử mà
giáo hoàng nói đến là những người nào? Giáo hoàng không nói rõ nhưng ai cũng
biết đó chính là những người Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành. Chúng ta
hẳn còn nhớ, ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II cùng một số Hồng
Y và Tổng Giám Mục đã xưng thú 7 núi tội ác của Ca-Tô Giáo Rô-ma đối với nhân
loại tại Vatican, và một trong 7 núi tội ác này là vu khống cho người Do Thái
cái tội giết Chúa và bách hại người Do Thái trong nhiều thế kỷ.
Lời
cầu nguyện trên chứng tỏ là Ca Tô Giáo thờ cùng một Thiên Chúa với người Do
Thái. Suốt 2 ngàn năm lịch sử, Ca Tô Giáo đã gây ra hết tội ác này đến tội ác
khác đối với nhân loại. Bất cứ khi nào cần, hoặc khi không còn có thể che dấu
tội ác của Giáo hội trước những tác phẩm nghiên cứu của các học giả ở trong
cũng như ở ngoài giáo hội, thì Giáo hội lại diễn xuất màn kịch ăn năn hối cải,
và xin được Thiên Chúa tha thứ chứ không phải là xin được các nạn nhân của Giáo
hội tha thứ, và lương tâm giáo hội lại yên ổn để tiếp tục làm tội ác, bất kể là
thực ra có Thiên Chúa hay không và nếu có thì Thiên chúa có chịu tha tội cho
giáo hội hay không. Nhưng ngày nay, đối với giới trí thức và hiểu biết, thì vấn
đề xin Thiên Chúa tha thứ cho Giáo hội đã trở thành vô nghĩa mà thực chất chỉ là
hành động che dấu tội ác (cover-ups). Bởi vậy, Lloyd Graham đã viết trong cuốn “Những Dối Trá Và Huyền Thoại Của Thánh Kinh” (Deceptions and
Myths of the Bible), trang 425, như sau: “Con
người! Hãy tha thứ cho Thiên chúa, vì hắn ta không biết là mình đã làm gì [dựa theo một câu của
Giê-su trước khi chết trên cây thập giá]. Tất cả sự sống đã chứng tỏ sự kiện thê thảm này, do đó, vấn đề không
phải là Thiên Chúa có tha thứ tội lỗi của con người không? mà là con người có
thể tha thứ cho sự độc ác của Thiên chúa không? (Man! forgive God,
for he knows not what he does. All life attests this tragic fact, and so the
question is not, will God forgive man for his sins? but can man forgive God for
his cruelty?) Và ngày nay, vấn đề đặt ra không phải là Thiên chúa có tha thứ
cho Giáo hội hay không, mà là những nạn nhân của Giáo hội trong suốt 2000 năm
nay có chịu tha thứ cho Thiên Chúa của Giáo hội hay không, vì tất cả những gì
Giáo hội làm đều nhân danh Thiên Chúa và áp dụng những điều Thiên Chúa đã dạy
trong Thánh Kinh, đặc biệt là coi người Do Thái như là tập đoàn kẻ thù đã “giết
Chúa”.
Phân
tích vấn đề, chúng ta thấy, Giê-su, cùng với bà mẹ Mary, 12 tông đồ, và 3 trong
4 tác giả của 4 phúc âm, đều là người Do Thái. Vậy tại sao Ki Tô Giáo lại reo
rắc hận thù và bách hại người Do Thái trong gần 2000 năm nay. Vấn đề chính là
dân Do Thái không tin Giê-su là Chúa Cứu Thế, chỉ coi Giê-su như là một nhà
tiên tri Do Thái như mọi nhà tiên tri khác. Điều này trái với tín ngưỡng của Ca
Tô Giáo, chủ trương đưa con người vào trong vòng mê tín, thờ phụng thần linh mà
họ gọi là Chúa. Chúng ta đã biết, Ca Tô Giáo tự nhận là “Tông truyền” cho nên
bất cứ niềm tin nào khác với Ca Tô Giáo đều phải diệt bỏ. Trong thời Trung Cổ,
Giáo hội Công Giáo đã phát động những cuộc Thập Ác Chinh, không những để diệt
những người Hồi Giáo, Do Thái Giáo, mà con tiêu diệt cả những tín đồ Ki Tô Giáo
nào không phải là Ca Tô Giáo chính thống, thí dụ như dân Cathars ở Languedoc,
Pháp, chẳng hạn..
Để
khuyến khích và nuôi dưỡng sự thù hận của tín đồ Ki Tô đối với dân Do Thái,
Giáo hội Ca Tô, bắt đầu từ Thánh Phaolồ (Paul), vu khống cho dân Do Thái cái
tội “giết Chúa”. Nhưng Giáo hội cố tình quên rằng, Giê su là người Do Thái, bố
mẹ Giê su là người Do Thái, tổ tiên Giê su là người Do Thái, 12 tông đồ đầu
tiên của Giê su cũng là người Do Thái, và Giê su chịu ảnh hưởng rất nhiều của
Do Thái Giáo, qua cuốn Cựu Ước. Tuy có thể người đóng đinh Giê-su lên thập giá
là người Do Thái, nhưng người kết tội tử hình Giê su là Pilate, toàn quyền La
Mã, vậy những người đóng đinh Chúa trên thập giá chỉ là những người thi hành
một bản án, cũng như các đao phủ khi xưa chém đầu tội nhân bị kết án tử hình.
Ngoài
ra, Giáo hội luôn luôn dạy rằng: "Chúa
là con một của Thượng đế, giáng trần để làm nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại
trước sự đầy ải thù hằn của Thượng đế, tình nguyện chết trên thập giá, dùng máu
mình để "rửa sạch tội lỗi của con người"”, vậy những người đóng
đinh Giê-su trên thập giá, dù họ thực sự là người Do Thái, thì đó chẳng qua họ
chỉ làm theo sở nguyện của chính Chúa Giê su, đáng lẽ phải được tuyên dương
công trạng vì đã giúp Chúa hoàn thành nhiệm vụ chuộc tội, chứ sao lại bị kết
tội là giết Chúa. Kết tội người Do Thái giết Chúa là thừa nhận Giê su không
phải là Chúa con, quyền phép vô biên, và phủ nhận luôn việc ý nghĩa của việc
Chúa giáng trần, ý nghĩa của việc tình nguyện chịu đóng đinh trên thập giá
v...v... Nhưng theo những chuyện không thể tin được trong Tân ước thì Giê-su
đâu có chết, vì chưa đầy 3 ngày sau ông ta đã sống giậy và 40 ngày sau đó bay
lên trời. Vậy thì thực ra Giê-su chết hay không chết? Nếu không chết thì ai là
người “giết Chúa”? Và cái màn bị đóng đinh trên cây thập giá chỉ là một màn bịp
bợm về cái gọi là “chịu khổ nạn để chuộc tội cho thế gian”. Những sự mâu thuẫn
cùng cực trong sách lược chống Do Thái của Giáo hội Ca Tô như trên không hề làm
bận tâm các tìn đồ, và họ thản nhiên hành hạ, tàn sát người Do Thái theo sách
lược của Giáo hội, và tiếp tục thù ghét người Do Thái cho tới ngày nay, khi họ
không còn quyền lực để cưỡng bức người Do Thái phải cải đạo, trục xuất lưu đầy,
hoặc thiêu sống người Do Thái như họ đã làm trong quá khứ.
Đọc
về những cung cách đối xử với dân Do Thái của Giáo hội Ca Tô Rô-ma nói riêng,
của Ki Tô Giáo nói chung, tôi thấy thật là tội nghiệp cho dân Do Thái và tội
nghiệp luôn cho đám tín đồ Ki Tô, đầu óc mù mịt, nhắm mắt theo sách lược chống
Do Thái của Ki Tô Giáo, để cho những bàn tay của mình dính đầy máu của những
người Do Thái vô tội mà không hề biết đến những mâu thuẫn cùng cực trong sách
lược này.
Sau
đây tôi sẽ đi vào một số chi tiết của những biện pháp mà một số Giáo hoàng,
những vị đại diện của Chúa trên trần, và một số chức sắc cao cấp trong hàng
Giáo phẩm Ca Tô và Tin Lành đã dùng để đối phó với dân Do Thái.
Chính
sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo Rô-ma, suốt 2000 năm
nay được Mục Sư Bringas (Ibid., trg. 27-35) tóm tắt trong 7 trang sách, sau đây
là vài đoạn trích dẫn:
"Điều rõ
ràng là nhiều sự bạo tàn đối với người Do Thái trong 2000 năm qua có thể tìm
thấy trong những hạt giống nghi ngờ và bất tín gieo trong Tân Ước. Ngay từ thời
đầu của Ki Tô Giáo, các tín đồ đã coi người Do Thái như là những đứa con ương
ngạnh của Thượng đế và là kẻ thù của Giê-su. Những cảm nghĩ chống Do Thái này
ta có thể thấy rõ ràng trong quyển "Công Vụ các Sứ Đồ" trong đó người
Do Thái bị gọi bằng những danh từ "cứng cổ," "phản bội," và
"dân giết người". Cái luận điệu này đã được nhấn mạnh trong bức thư
tông đồ đầu tiên của Phao-lồ gửi cho dân Thessalonians trong đó ông đổ cho
người Do Thái cái tội giết Chúa.
Phúc âm Matthew
mô tả người Do Thái đã thốt ra một lời nguyền rủa trên chính dân tộc của họ:
"Hãy đòi máu Chúa trên chúng tôi và con cái chúng tôi". Tuy rằng ngày
nay hầu hết các học giả đều cho câu trên là do sự ngụy tạo của tác giả phúc âm
Matthew, qua nhiều thế kỷ, câu trên đã được dùng làm cái cớ và biện minh cho sự
giết chóc người Do Thái.
Có lẽ luận điệu
chống Do Thái mạnh nhất là ở trong phúc âm của John. Thật khôi hài là trong
phúc âm này, mà nhiều tín đồ Ki Tô gọi là "phúc âm của tình thương
yêu", lại có những câu phỉ báng và nguyền rủa người Do Thái... Chỉ là vấn
đề thời gian cho đến khi những lời trên và những lời khác làm giảm giá trị của
Thánh kinh được làm nhiên liệu cho những ngọn lửa của đức tin mù quáng. Người
Do Thái đã trở thành mục tiêu của nền thần học méo mó dựa trên sự ngu tối,
thiên kiến, và uy quyền tràn ngập kết hợp với những điều viết trong Thánh kinh.
...Ngay từ buổi
sơ khai, các tín đồ Ki Tô coi người Do Thái như là "những kẻ giết
Chúa" và là kẻ thù của Ki Tô Giáo. Những thái độ độc địa này lan nhanh từ
cộng đồng Ki Tô sang mọi khu vực của xã hội, và đưa đến sự bách hại người Do
Thái, đặc biệt là sau khi Ki Tô Giáo trở thành tôn giáo của Rô-ma [Công giáo Rô-ma] dưới thời Constantine ở thế kỷ thứ tư.
Hàng giáo phẩm
Ca Tô giáo khuyến khích các hoàng đế La Mã đối đãi khắc nghiệt với người Do
Thái. Dân thường không được theo đạo Do Thái và đời sống của người Do Thái bị
nhiều hạn chế. Những người Do Thái và Ca Tô giáo lấy nhau bị xử tội chết. Hoàng
đế La Mã Theodosius II cấm người Do Thái không được giữ những chức vụ trong
chính quyền hoặc xây những giáo đường. Hoàng đế Justinian còn đi xa hơn: kết án
người Do Thái là dị giáo và ra lệnh tịch thu các giáo đường Do Thái để làm nhà
thờ Ca Tô. Justinian cũng còn hợp pháp hóa những hành động của những giám mục
và linh mục Ca-Tô cướp phá và thiêu hủy các giáo đường Do Thái.
Những đạo luật
chống Do Thái ở Tây Ba Nha còn khắc nghiệt hơn. Năm 694, công đồng thứ bảy ở
Toledo tuyên cáo mọi người Do Thái là nô lệ, và ra lệnh tịch thu tài sản của
họ. Công đồng cũng ra sắc lệnh là khi các em nhỏ Do Thái lên bảy tuổi thì phải
tách chúng ra khỏi gia đình để cho hàng giáo phẩm Ca Tô giáo dạy dỗ chúng và
khi lớn lên chúng phải kết hôn với người Ca Tô.
Sử gia nổi
tiếng Solomon Grayzel ước tính có 10000 Do Thái bị giết ở Trung Âu trong cuộc
đệ nhất thánh chiến. Sự tàn sát tập thể kéo dài và ghê rợn, những nạn nhân
người Hồi giáo và Do Thái giáo - nam, nữ và trẻ con - đã gia tăng khi Jerusalem thất thủ. Nhiều
người Do Thái bị thiêu sống ngay trong giáo đường của họ.
Năm 1215, dưới
triều đại của Giáo hoàng Innocent III, sắc lệnh được ban bố quy định mọi người
Do Thái, nam trên 13 tuổi, nữ trên 11 tuổi, đều phải mang một mảnh băng màu
vàng ở đằng trước và đàng sau áo của họ. Cái "huy hiệu" này được coi
như một dấu hiệu của sự ô nhục, tượng trưng cho sự chia rẽ thù nghịch giữa
người Ca Tô giáo và những kẻ được gọi là giết Chúa.
... Sự bách hại
dân Do Thái này đã được tiếp tục suốt trong thời Trung Cổ. Ngày 4 tháng 6,
1391, phó chủ giáo ở Ecija xúi giục một cuộc nổi giậy ở Seville, Tây Ba Nha,
với kết quả là có 4000 người Do Thái bị giết. Cùng mùa hè năm đó, từ thị trấn
này qua thị trấn khác ở khắp châu Âu, người Do Thái bị thiêu sống trong nhà
hoặc giáo đường của họ. Số người chết lên tới 50000.
Ngay từ lúc
đầu, đạo Tin Lành cũng chống Do Thái như là đạo Ca Tô. Martin Luther, sáng lập
viên và lãnh tụ của cuộc cải cách Tin Lành (1517) cũng mãnh liệt bách hại người
Do Thái. Điều này đã đưa chúng ta tới một kỷ nguyên chống Do Thái kinh khủng
nhất mà thế giới đã thấy. Sự tàn sát tập thể nhiều triệu người Do Thái bởi
những lực lượng Đức quốc xã trong kỳ đệ nhị Thế Chiến là kết quả của nhiều yếu
tố xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý, và tôn giáo. Tuy nhiên, Ki Tô giáo phải
gánh một phần trách nhiệm.
Adolf Hitler là
một tín đồ Ca Tô. Hắn chưa bao giờ bỏ Giáo hội, và cũng chưa bao giờ bị tuyệt
thông. Trong cuộc thảo luận với Giám mục Berning ở Osnabruk vào tháng 4 , 1933,
Hitler ghi nhận: "Đối với dân Do Thái, tôi chỉ thi hành cùng một chính
sách mà Giáo hội Ca Tô đã theo trong 1500 năm." Hitler cho rằng mình đã
theo sự chỉ đạo của Giáo hội, đặt kế hoạch thực hiện những gì mà những tín đồ
Ca Tô đã làm trong suốt dòng lịch sử, giết người Do Thái.
Không còn nghi
ngờ gì nữa là sự chống Do Thái của Đức quốc xã là dẫn xuất từ, ít ra là một
phần, chính sách chống Do Thái của Ki Tô giáo, nền tảng của chính sách này do
Giáo hội Ca Tô đặt ra và những điều mà Luther chủ trương sau này. Cùng nhau,
lòng tin mù quáng của Ki Tô Giáo và ý niệm quốc gia của Đức đã gây nên sự điên
rồ giết hại 6 triệu người Do Thái
."
(It
is no secret that many atrocities committed against the Jews over the past 2000
years can be traced to the seeds of suspicion and distrust sown in the NT.
Since the very beginning of Christianity, believers have regarded the Jew as
the wayward children of God and the enemies of Jesus. These anti-Jewish
sentiments are clearly reflected in the Book of Acts. Jews are variously called
"stiff-necked," "betrayers," and "murderous
people" (Acts 7: 51-53). This theme is reinforced in Paul's first letter
to the Thessalonians (2:15-16) in which he blames the Jews for the death of
Jesus...The Book of Mathew (27:25) describes the Jew as pronouncing a curse
upon themselves: "His blood be on us and our children!" Although this
statement is now considered by most scholars to have been fabricated by the
author of Mathew, throughout the centuries it served to excuse and justify the
killing of Jews.
Perhaps
the strongest anti-Jewish emotion is registered in the Gospel of John. It is
ironic that here, in what many Christians call the "love book," are
statements vilifying and damning the Jews...It was only a matter of time until
these and other derogatory biblical sentiments fueled the fires of bigotry. The
Jews became the targets of distorted theology based on ignorance, bias, and the
overwhelming authority associated with biblical writing.
...Early
on, Christians looked upon the Jews as "Christ killers" and enemies
of Christianity. The venomous attitudes spread quickly from the Christian
community to every sector of society, and eventually led to the vicious
persecution of Jews, especially after Christianity became the official religion
of Rome under Constantine in the fourth century.
The
Christian clergy encouraged Roman emperors to deal harshly with the Jews. Pagans
were forbidden to convert to Judaism and many restrictions were placed on
Jewish life. Marriages between Jews and Christians were punished by death. The
Roman Emperor Theodosius II (A.D 408-450) forbade Jews to hold public office or
to build synagogues. The Emperor Justinian (A.D 483-565) went further: He
condemned the Jews as heretics and ordered their synagogues to be confiscated
by the state and trasformed into churches.
Justinian
also legalized the pillaging and burning of synagogues by Christian bishops and
monks.
The
anti-Jewish laws set down in Spain
were even harsher. In 694 the seventh Council of Toledo declared all Jews to be
slaves, and ordered their property and possession confiscated. The Council also
decreed that Jewish children were to be taken from their parents at age seven
to be raised by the clergy and later married to Christians.
...Noted
historian Solomon Grayzel estimates that 10,000 Jews were slain in Central Europe during the First Crusade. The prolonged
and hideous massacre of Moslems and Jews - men, women and children -when Jerusalem fell added to
the number of victims. Many Jews were burned to death in their synagogues.
In
1215, during the reign of Pope Innocent III, it was decreed that all Jewish
males older than thirteen and Jewish females older than eleven must wear a
yellow patch on the front and back of their garnments. This "badge"
was regarded as a mark of shame, symbolizing the continuing hostile division
between Christians and the so-called murderers of Christ.
...This
murderous persecution of Jews continued throughout the Middle Ages. On June 4,
1391, the Archdeacon of Ecija incited a riot in Seville, Sapin, which resulted in the killing
of 4000 Jews. The same summer, in city after city across Europe,
Jews were burned out of their homes and synanogues. The number of Jewish deaths
is placed at 50.000.
From
its beginning, Protestantism was as anti-Semitic as Catholicism. Martin Luther,
founder and leader of the Protestant Reformation (1517) persecuted the Jews
vehemently..
This
brings us to what is perhaps the most appalling epoch of anti-Semitism the
world has witnessed. The mass extermination of millions of Jews by the Nazi
forces during World War II was the result of many social, political, cultural,
psychological, and religious factors. Christianity, however, must bear partial
liability.
Adolf
Hitler was a Catholic. He never left the Church, nor was he excommunicated. In
his discussion with Bishop Berning of Osnabruk in April 1933, Hitler remarked:
"As for the Jews, I am carry on with the same policy which the Catholic
Church has adopted for 1500 years." Hitler claimed to be following the
Church's lead, planning to do what Christians had done throughout history -
namely, murder Jews.
There
was no doubt that Nazi anti-Semitism was derived, at least in part, from
Christian anti-Semitism, which grew out of the foundation laid by the Catholic
Church and the later teaching of Luther. The Nazi credo was equally a part of
German nationalism. Together, Christian bigotry and German nationalism spawned
the insanity that murdered 6.000.000 Jews.)
Ki
Tô Giáo đã làm mất nhân tính của người Do Thái như thế nào? Chúng ta hãy đọc
lời mô tả giáo đường Do Thái sau đây của chính "Thánh" John
Chrysostom trong thế kỷ 4, người được coi là một trong những “Thượng phụ” lập
giáo vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo (Saint John Chrysostom, 4th century, one of the
greatest of the "Church Fathers", Brown, Ibid., p. 10):
"Cái Giáo
đường Do Thái còn tệ hơn là một ổ điếm...là sào huyệt của những tên vô lại và
là nơi vãng lai của loài dã thú...là đền đài của quỷ dữ hiến thân cho sự sùng
bái hình tượng...là nơi trú ẩn của quân cướp và kẻ trụy lạc. Đó là nơi hội họp
của những kẻ phạm tội...nơi hội họp của những kẻ giết Chúa... một nơi tệ hơn là
một tiệm rượu, là sào huyệt của những tên trộm cắp, là một nhà chứa, nơi trú
ngụ của những kẻ phạm tội, nơi trú ẩn của quỷ."
(The
synanogue is worse than a brothel...it is the den of scoundrels and the repair
of wild beasts... the temple of demons devoted to idolatrous cults...the refuge
of brigands and debauchees, and the cavern of devils. It is a criminal assembly
of Jews...a place of meeting for the assassins of Christ..a house worse than a
drinking shop.. a den of thieves; a house of ill fame, a dwelling of iniquity,
the refuge of devils...)
Đó
là ngôn từ của một vị “thánh” Ca Tô, một nhà lập giáo vĩ đại của Ca Tô giáo.
Không biết có phải do truyền thống Ca Tô giáo hay không mà trước đây Giáo hoàng
John Paul II đã dùng những ngôn từ thiếu văn hóa để phê bình những nhà truyền
giáo Tin Lành ở Nam Mỹ, và Hồng Y Ratzinger, nay là giáo hoàng Benedict XVI,
cũng dùng những ngôn từ khá hạ cấp và thiếu giáo dục để phê bình Phật Giáo như
chúng ta đã biết.
Nhưng
không phải chỉ có “thánh” John Chrysostom là có loại ngôn từ đặc biệt như trên.
Chúng ta hãy đọc vài lời “thánh phán” khác của Ca Tô Giáo Rô-ma.
“Thánh” Bernard
coi toàn thể dân tộc Do Thái là “súc vật ngu đần và còn tệ hơn cả súc vật nữa”,
“một loại thông minh thô thiển, ngu đần” vì chúng không chịu theo Chúa. [Với kiến thức của
nhân loại ngày nay về vũ trụ học, sinh học, xã hội học, tôn giáo học v..v.. thì
lời mô tả này để dành cho những người theo Chúa thì có lẽ đúng hơn]
(Brown,
Ibid., p. 12: St. Bernard charged the whole Jewish people with “a stupidity
bestial and more than bestial,” an “intelligence coarse, dense, and as it were
bovine” because they did not follow the Lord..
“Thánh”
Augustine, nhà thần học vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo, nói trong một bài giảng
đạo:
Người Do Thái
bắt giữ ông ta (Giê-su), nhục mạ ông ta, trói ông ta, đội mũ gai cho ông ta,
phỉ nhổ làm nhục ông ta, quất roi lên người ông ta, treo ông ta trên cây, đâm
ông ta bằng một cây giáo… Người Do Thái đã giết ông ta.”
Trong một bài
giảng khác, Augustine gán cho người Do Thái tội “cố ý mù quáng không biết đến
Thánh Kinh”, “thiếu hiểu biết” và “những kẻ ghét chân lý”
(Brown,
Ibid.: Augustine, the great theologian, says in a sermon: "The Jews hold
him, the Jews insult him, the Jews bind him, crown him with thorns, dishonor
him with spitting, scourge him, hang him upon the tree, pierce him with a
spear...The Jews killed him."
In
another sermon he characterized the Jews as "willfully blind to Holy
Scripture," "lacking in understanding" and "haters of
truth." )
Những
lời “thánh phán” như trên chứng tỏ những “thánh Ca-Tô” đó bản chất chỉ là những
kẻ cuồng tín ngu đần của thời bán khai. Đó là những người mà Ca Tô Giáo ca tụng
là “Thượng phụ lập giáo” của Ca Tô Giáo (Church fathers). Ngày nay chúng ta
biết rằng, “vô thần”, “không tin vào Thiên Chúa”, “không tin vào Thánh Kinh”,
“không chịu theo Chúa” chính là một biểu hiện của danh dự, của sự thông minh (a
badge of honor, of intelligence). Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên khắp thế
giới, song song với sự tiến bộ trí thức của nhân loại, hơn gì hết đã chứng tỏ
điều này.
Về
những lời “thánh phán” như trên và về vấn đề Ca Tô giáo bách hại dân Do Thái,
Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người theo Ca Tô giáo khoảng 30 năm lúc thiếu thời,
trong một bài viết vô cùng giá trị đối với các tín đồ Ca Tô giáo để họ hiểu rõ
đạo của mình với nhan đề "Ít
Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo" đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập I, trg. 41-42, đã viết
một cách châm biếm như sau:
"Cái thắc
mắc khác của tôi, là một giáo hội đầy ơn Chúa, đầy chân lý và tình thương như
vậy, khi thực sự đã cai trị Âu châu, lại làm cho Âu châu run sợ vì tàn ác.
Linh mục Edward
A. Synam, tác giả quyển The Popes and The Jews in the Middle Ages cũng đã phải thành khẩn công nhận rằng: khi Âu châu
được đặt dưới quyền thống trị của các giáo hoàng thời Trung Cổ đã không biết
chuyện bình đẳng và công bằng, luật pháp thì dã man từ ý hướng đến hình phạt,
và đã chĩa mũi dùi vào dân chúng Do Thái tội nghiệp.
Tôi lại càng
thêm phục Giáo hoàng Innocent III vì đã coi dân tộc Do Thái ngang hàng với
"BÒ", với "SÚC VẬT", và ngài còn cho thế là lịch sự tử tế,
vì theo Ngài, tiên tri Isaiah đã coi dân Do Thái thua bò, thua giống vật nữa.
Nếu
Nostradamus, Marx, Einstein (các vị này đều là gốc Do Thái) mà đọc được những lời của Giáo hoàng Innocent III,
chắc phải khiếp vía, vì không biết Ngài thông minh đến mức nào, mà dám coi
người Do Thái như bò, như súc vật.
Khi đã coi rẻ
Do Thái đến như vậy, đã coi đạo Do Thái tầm thường đến như vậy, thì tịch thu
các sách Talmud - thánh thư của Do Thái giáo - chất lên nhiều xe, đem ra đốt
giữa thành phố Paris năm 1242, theo lệnh của vua thánh Louis và được sự chúc
phúc tán đồng của Giáo hoàng Gregory IX là một chuyện rất tầm thường đối với
Công Giáo, vì những "thánh thư Do Thái" đồi bại như vậy, giữ nó làm
cái gì.
Có một điều khó
hiểu là những thế kỷ từ 11 đến 15 huy hoàng như vậy, đối với người Do Thái lại
là 4 thế kỷ kinh hoàng. Chẳng những thế ngay người Âu châu cũng đã vô ơn, đã
đầy thiên kiến khi đánh giá những thế kỷ Trung Cổ (476-1453) đầy ánh sáng Thiên
Chúa và Phúc Âm ấy là "Thời đại Hắc Ám" (The Dark Ages). Nhưng khi phong trào khảo cứu lại nền văn minh Hi Lạp
nảy sinh ra, họ đã dám gọi đó là "Thời kỳ Phục Sinh" (Renaissance, thế kỷ
14-16); và khi phong trào đề cao lý
trí con người được khởi xướng, họ lại dám gọi đó là "thời Kỳ Phát
Quang" (Enlightenment,
thế kỷ 18). Thực là ngạo mạn, nhảm nhí
vô cùng."
Các
Giáo hoàng, Thánh Ca Tô coi người Do Thái tệ mạt như vậy, nhưng sự thực thì
sao? Ai cũng biết Do Thái là một dân tộc thông minh, có nhiều cá nhân xuất sắc
trong mọi lãnh vực, và nhất là có tài làm ra tiền. Nền tư bản của Mỹ ít ra là
một phần nằm trong tay người Do Thái. Vì là một dân tộc thông minh nên người Do
Thái không thể chấp nhận Giê-su, con của một anh thợ mộc, đầu óc và kiến thức
không có gì đặc biệt, tư cách kém cỏi, theo như nhận định của triết gia
Bertrand Russell, làm Chúa cứu thế của dân tộc họ. Đây là lý do chính làm Ca Tô
thù ghét người Do Thái, vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa để có cớ kích
động sự thù hận trong đám giáo dân ngu tối, cuồng tín, hồ hởi bách hại người Do
Thái để "vinh danh Thiên Chúa trên Trời".
Sau
đệ nhị thế chiến với chính sách diệt chủng Do Thái của Đức Quốc Xã với sự im
lặng đồng lõa của Ki Tô Giáo, chính Giáo Hoàng John XXIII đã đưa ra lời cầu
nguyện sau đây cho giáo hội công giáo hoàn vũ:
“Dấu ấn của
Cain đã đóng lên trán của chúng ta. Qua nhiều thế kỷ, người anh em Abel của
chúng ta đã nằm trên vũng máu mà chúng ta rút ra, và tràn nước mắt mà chúng ta
đã gây ra vì đã quên đi tình yêu thương của Người. Xin Chúa hãy tha thứ cho
chúng tôi về lời nguyền rủa mà chúng tôi đã gán cho những người Do Thái. Hãy
tha thứ cho chúng tôi vì đã đóng đinh Ngài trên thập giá lần thứ hai trong thân
thịt của họ. Vì chúng tôi không biết là chúng tôi đã làm gì.” (Thánh Kinh viết, vì
sự bất công của Thượng đế nên Cain ghen tị và giết em ruột của mình là Abel.
TCN)
(Peter
de Rosa, Vicars of Christ: The Dark
Side Of The Papacy,
p. 6: The mark of Cain is stamped upon our foreheads. Across the centuries, our
brother Abel has lain in blood which we drew, and shed tears we caused by
forgetting Thy love. Forgive us, Lord, for the curse we falsely attributed to
their name as Jews. Forgive us for crucifying Thee a second time in their
flesh. For we knew not what we did.)
Nhiều
người Ca Tô cho rằng “Đức Thánh Cha” của họ rất chân thành thú nhận tội ác của
Ca Tô giáo trong vấn đề bách hại người Do Thái. Nhưng thực ra thì không phải là
“Vì chúng tôi không biết là chúng tôi
đã làm gì.” mà
là “chúng tôi” đã biết rất rõ là “chúng tôi” đã làm gì. “Chúng tôi” đã theo sát
lời dạy của Chúa Jésus Christ trong Tân Ước, Luke 19:27: “Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người
không muốn Ta ngự trị trên chúng (nghĩa là những người không muốn trở thành
tôi tớ hèn hạ của Chúa), và giết chúng
ngay trước mặt ta.”
Mặt khác, gây tội ác với người Do Thái thì phải thành tâm xưng tội và tạ tội
với người Do Thái, chứ không thể xin Chúa tha tội. Chúa ở đâu mà tha tội. Mang
một cái hình bóng tưởng tượng ra để chạy tội thế gian là một điều không ai có
thể chấp nhận ngày nay. Mấy ông mục sư, linh mục đi hiếp dâm con nít vẫn phải
vào tù ngồi để đền tội, bất kể là Chúa có tha tội cho họ hay không.
Sau
đệ nhị Thế Chiến, cả hai giáo hội Ca Tô và Tin Lành, với mặc cảm tội lỗi, đã tỏ
ra hòa hoãn hơn đối với dân Do Thái. Hai tôn giáo này cũng tỏ ra, ít nhất là ở
ngoài mặt, bớt kỳ thị hơn đối với những tôn giáo phi Ki Tô. Chính sách bách hại
người Do Thái của Ca Tô và Tin Lành, đưa đến sự tàn sát có tính cách diệt chủng
6 triệu người Do Thái trong những trại tập trung của Đức quốc xã, đã làm cho cả
thế giới bất bình lên án. Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca
Tô không còn chọn lựa nào khác, vì quyền lực thế tục đã mất không còn khả năng
bách hại những người ngoại đạo bằng những hành động bất nhân tàn ác, là phải
đưa ra chiêu bài hòa hợp tôn giáo trên đầu môi chót lưỡi qua Công Đồng Vatican
II. Nhưng trên thực tế, Ca-Tô Giáo Rô-ma vẫn cho rằng chỉ có một con đường duy
nhất đưa đến sự “cứu rỗi” của Giê-su là đi qua ngả trung gian Vatican. Và cũng
vì vậy, trong hơn 40 năm nay, chiêu bài hòa hợp tôn giáo của Vatican vẫn chỉ có
trên mặt văn tự, vì không có hệ phái Ki Tô nào khác chịu hòa hợp với một định
chế tôn giáo gian dối, chuyên nói ngược nói suôi. Những tôn giáo phi Ki Tô còn
dè dặt hơn nữa, vì những kinh nghiệm lịch sử cho thấy rõ rằng, hòa hợp tôn giáo
với Ca Tô Giáo Rô-ma là đánh đu với tinh.
Tài Liệu Tham Khảo:
Richard
L. Rubenstein & John K. Roth, Approaches
To Auschwitz: The Holocaust and its Legacy, John Knox Press, Georgia, 1987.
Robert
G.L. Waite, Hitler and Nazi Germany, Holt, Rinehart
& Winston, Inc., NY , 1969
CHƯƠNG IV
SÁCH LƯỢC BÀNH TRƯỚNG CỦA KI TÔ
GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
Chúng
ta đã thấy, qua những tài liệu dẫn chứng ở các phần trên, sự phát triển của Ki
Tô Giáo ở Âu châu đã dựa trên những chính sách kỳ thị tàn bạo, cường quyền
thắng công lý, chứ không dựa trên luân lý và đạo đức. Kể từ thế kỷ 16, Ca Tô
Giáo đã hoặc liên kết với các đế quốc thực dân, hoặc làm tiền phong, hoặc theo
gót các lực lượng thực dân để truyền đạo trên khắp thế giới. Gia Tô Giáo đã
thành công ở Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh, nhưng thất bại ở Á Châu vì gặp phải
những nền văn hóa lớn khác, vượt xa nền văn hóa Ki Tô về mọi phương diện tâm
linh, luân lý, đạo đức v..v... như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Khổng giáo. Sau đây tôi
sẽ duyệt qua sách lược truyền đạo của Ki Tô Giáo trên thế giới. Riêng về lịch
sử du nhập của Ca Tô Giáo vào Việt Nam
và ảnh hưởng của tôn giáo này trên xã hội Việt Nam tôi sẽ dành cho một chương
riêng.
Hiển
nhiên, trong cuốn sách nhỏ này, tôi không thể viết đầy đủ chi tiết về sự truyền
đạo của Ca Tô Giáo Rô-ma trên thế giới. Cho nên, sau đây tôi chỉ nêu ra những
sắc thái chính của sự bành trướng của Ca Tô Giáo Rô-ma ở Phi Châu, Châu Mỹ La
Tinh, và Á Châu.
Penny
Lernoux, trong cuốn "Tiếng Kêu Than Của Người Dân" (Cry of the
People, p. 10) viết về sự truyền đạo Ca Tô Giáo Rô-ma ở Châu Mỹ La Tinh như
sau:
"Nhìn theo
góc cạnh lịch sử, Giáo hội Ca Tô Rô-ma ở Châu Mỹ La-Tinh có vẻ như là một tổ
chức ít chống đối những chế độ quân phiệt độc tài nhất. Từ khi Columbus đặt
chân trên Tân Thế Giới thì người ta không thể phân biệt giữa Thập Giá và Lưỡi
Gươm. Các linh mục và những quân xâm lược Tây Ba Nha chia nhau dân chúng và đất
đai cưỡng đoạt được. Và rất lâu trước khi các chế độ quân phiệt dựng lên những
phòng tra tấn, những tòa án xử dị giáo đã hoạt đông với roi vọt và giá căng
người. Vào thời các cuộc chiến giành độc lập vào đầu thế kỷ 19, Giáo hội là địa
chủ lớn nhất ở Châu Mỹ La Tinh và cũng là lực lượng chính trị bảo thủ nhất trên
lục địa.
Vì thế lực
chính trị và kinh tế của Giáo hội và vì Giáo hội nắm trong tay độc quyền giáo
dục dân chúng, Giáo hội nắm toàn quyền trong xã hội Mỹ-La-Tinh. Giáo hội dạy
những nô lệ thổ dân và Phi Châu an phận theo định mệnh và hứa hẹn một đời sau
tốt đẹp hơn. Giáo hội gieo hạt giống cao ngạo (của những tín đồ Ca Tô) mang từ
Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha tới. Giáo hội khuyến khích quan niệm thủ lợi sâu đậm
trong giới trung lưu, rằng họ có thể làm bất cứ điều gì, kể cả giết những nông
dân vô tội, chừng nào mà họ còn đi xem lễ nhà thờ, đóng góp đất đai và tiền bạc
cho sự bành trướng của Giáo hội, và bắt con cái họ đi rửa tội. Đây là những tín
hữu Ki Tô tốt, được các giám mục ở Châu Mỹ La Tinh tôn vinh. Hậu duệ của họ
ngày nay nắm chính quyền quân phiệt, cai trị hai phần ba dân chúng trong vùng.
Hãy nhìn đằng sau một tên độc tài, chúng ta thấy đứng đó một giám mục."
(Viewed
historically, the Latin-American Catholic Church would seem the least likely
institution to oppose the military regimes. From the moment Columbus
set foot in the New World, cross and sword had
been indistinguishable. Priests and conquistadors divided the plunder in people
and land. And long before Latin America's
military regimes installed their torture chambers, the Inquisition was at work
with whip and rack. By the time of the wars of independence at the beginning of
the nineteenth century, the Church was the largest landowner in Latin America. It was also the most conservative
political force on the continent.
Because
of its political and economic importance and its monopoly of education, the
Catholic Church was the arbiter of Latin-American society. It taught the Indian
and African slaves to embrace fatalism on the promise of a better hereafter. It
planted the seeds of machismo brought from Spain
and Portugal.
It encouraged a deep strain of cynicism among the upper classes, who learned
that they might do anything, including slaughter innocent peasants, as long as
they went to Mass, contributed land and money to the Church's aggrandizement,
and baptized their children. These were the "good Christians" honored
by the Latin-American bishops. Their descendants run the military regimes that
today govern two thirds of the area's people. Look behind a dictator, there
stands a bishop.)
Anene
Obianyido, trong cuốn "Chúa Ki Tô hay Quỷ? Bộ Mặt Đồi Bại Của Ki Tô Giáo ở
Phi Châu" (Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, p. 15), cũng viết như sau về sự hiểu biết của các
giáo sĩ thừa sai về Phi Châu và quan niệm của họ về những truyền thống dân tộc
Phi Châu:
"Làm sao
mà người dốt nát Phi Châu ý niệm nổi Thượng đế? Làm sao có thể được? Thượng đế
là một ý niệm triết lý mà những người dân man rợ không thể hiểu nổi. Đó là
những quan niệm sai lầm của những thừa sai và các con buôn Âu châu lúc mới tới
Phi Châu, tác giả của khái niệm méo mó về Phi châu mà xưa kia, và theo một mức
độ nào đo, cho tới ngày nay, kiến thức về lục địa Phi của những người da trắng
vẫn còn dựa trên khái niệm sai lầm này. Thực ra, không phải chỉ là "quan
niệm sai lầm về Thượng đế" của Phi Châu mà các thừa sai chống đối. Mọi
khía cạnh của nền văn hóa truyền thống Phi châu đối với họ đều không thể chấp
nhận được, do đó những người dân Phi Châu tân tòng Ki Tô Giáo không được phép
xem coi, đừng nói đến chuyện tham gia, những lễ lạc truyền thống hay những cuộc
nhảy múa truyền thống, đặc biệt là nếu những cuộc khiêu vũ đó thuộc một dạ hội
hóa trang. Đó là thái độ thù nghịch của người da trắng khi họ không biết gì về
Phi Châu và dân chúng trong lục địa; khi, theo lời của giáo sư Idowu, "đối
với thế giới Tây phương, Phi Châu không có văn hóa và bất cứ một tổ chức xã hội
nào."
(How
can the untutored African conceive God? How can this be? Deity is a
philosophical concept which savages are incapable of framing" That was the
erronous view shared fully by the early missionaries and European traders, the
authors of the original distorted notion of Africa on which the white man's
understanding of the continent was and, to an extent, still is based. Indeed,
it was not only the African's "misconception of deity" that the missionaries
quarrelled with. Every aspect of the traditional culture was unacceptable to
them, hence the early African converts were not allowed to watch, let alone
participate in, traditional ceremonies or traditional dance, especially if it
had to do with masquerades. That was the hostile attitude of the white man when
he was ignorant of Africa and its people; when, in the words of Professor
Idowu, "to the Western world indigenous Africa
was barren of culture or any form of social organization.)
Trong
cuốn Các Giáo Sĩ Thừa Sai (Missionaries, p. 90), cuốn sách đi kèm với một
chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, khảo luận về những thành quả truyền đạo của
Ki Tô Giáo trên thế giới, Julian Pettifer & Richard Bradley cũng viết như
sau về Phi Châu:
"Những
thừa sai gửi về một phúc trình nói đến sự cải đạo: "Sự cải đạo được vui vẻ
đón nhận, và có những diễn văn về sự truyền bá vinh quang của Ki Tô Giáo; nhưng
thật ra thì các thổ dân đã bị biến đổi từ những người tốt (lương), với nhiều
đức tính tuyệt vời, thành những kẻ dối trá chuyên nghiệp, đạo đức giả, và
chuyên gây tai tiếng. Và công cuộc "văn minh hóa" vẫn tiếp
diễn." Vậy mà những phê bình về mục đích liêm chính của các thừa sai như
trên cũng không thay đổi phong trào đi truyền giáo xảy ra ở khắp Âu Châu, và
niềm tin của các thừa sai vẫn vững chắc. Nhưng cùng lúc họ bắt buộc phải tự hỏi
tại sao cái thông điệp của họ không được đón nhận. Điều hiển nhiên đối với các
thừa sai là người Phi Châu dốt nát sẽ được lợi mọi đàng nếu theo Ki Tô Giáo.
Nhưng đối với đa số người Phi Châu thì vấn đề lại ngược lại. Câu hỏi thích đáng
hơn là tại sao các thừa sai lại hi vọng có thể thành công, vì đối với người dân
Phi Châu trước thời bị chiếm làm thuộc địa, không có lý do gì để họ phải theo
Ki Tô Giáo."
(The
missionaries sent home a report of conversions: "It is received ...with
joy, and speeches are made about the glorious work of spreading Christianity;
whereas..the natives have been transformed from good heathens, with many
excellent qualities, into accomplished liars, hypocrites and
scandal-mongers..Thus the glorious work of "civilization" goes
on" Yet such attacks on their integrity of purpose failed to deflect the
missionary movement that was sweeping through Europe,
and the belief of the missionaries held firm. At the same time they were forced
to question why their message was not being taking up more readily. It seemed
obvious to them that the benighted
African
had everything to gain by becoming Christian. To most Africans the opposite was
true. It is perhaps more pertinent to ask why the missionaries ever expected to
be successful, since for the African in the pre-colonial period there seemed no
point in becoming Christian.)
về
Bắc Phi (Ibid., p. 190) :
"Sự tuyển
mộ được thi hành triệt để nhưng sự thành công cải đạo những dân theo Hồi Giáo
thật là ít ỏi. Thí dụ ở Morocco, một vị thừa sai hoạt động cho Hội truyền giáo
tiền tuyến phúc trình rằng chỉ có 300 người theo Ki Tô Giáo trong một dân số 26
triệu; ở Bắc Phi có nhiều mồ của các nhà truyền giáo hơn là số dân theo đạo.
Tuy rằng sự thất bại đã rõ ràng, các nhà truyền giáo vẫn duy trì một niềm lạc
quan không thể dập tắt được. Theo Patrick Johnstone, một tác giả đi truyền giáo,
thì "Những vết nứt trên bức tường Hồi Giáo hầu như không thể xuyên qua
được, có thể mở rộng ra bằng sự cầu nguyện". Đối với cộng đồng những nhà
truyền giáo, cầu nguyện có vẻ như là vũ khí chính thật và hữu hiệu để đánh đổ
Hồi giáo."
(The
recruitment drive is fierce but their success among Muslims are few. In Morocco, for example, one missionary who worked
for the Frontline mission reported that there were only about 300 Christians in
a population of 26 million; more evangelical missionary graves in North Africa than Christian converts. Despite the very
real sense of failure, the unquenchable
optimism
that typifies evangelical missionary endeavour is sustained. In the words of
Patrick Johnstone, an evangelical author, "The cracks in the seemingly
impenetrable wall of Islam can be widened by prayer!" To the evangelical
community, prayer is seen as a genuine and effective tool with which to combat
Islam.)
và
về Nam Mỹ (Ibid., p. 133) :
Gary
Wills, Why I Am A Catholic, Houghton Mifflin
Company, NY, 2002
Michael
Phayer, The Catholic Church and the
Holocaust,
1930-1965, Indiana
University Press, IN.,
2000.
Daniel
Jonah Goldhagen, A Moral Reckoning:
The Role of the Catholic Church in the Holocaust and its Unfulfilled Duty of
Repair,
, Alfred A. Knopf, NY, 2002
Mark
McKain, Anti-Semitism, Greenhaven Press, MI,
2005.
David
A. Rausch, A Legacy of Hatred: Why
Christians Must Not Forget The Holocaust, Moody Press, Chicago, 1984.
Các
tài liệu trên Internet.
"Những thổ
dân thường được sống cùng nhau trong những "làng Ki-Tô" tại đó họ
được đặt dưới sự kiểm tra kỹ lưỡng của các linh mục, họ được dạy giáo lý và
được khuyến khích bỏ đi những tục lệ "man rợ" để thay thế vào đó bằng
tục lệ và đức tính Ki Tô. Bị xa lìa khỏi chính dân tộc của mình và bị từ chối
sự tự túc dựa trên săn bắn, trồng trọt vườn tược, họ chỉ còn một con đường để
theo. Dựa trên những con số rửa tội, số người cải đạo thật đáng ngạc nhiên.
Người ta ghi những con số 8000, 10000, và đến cả 14000 người cải đạo mỗi ngày.
Chúng ta phải nhớ rằng, khả năng nói tiếng địa phương của các linh mục thường
rất yếu kém, không có Thánh kinh viết bằng tiếng bản xứ, và những người cải đạo
hoàn toàn mù
chữ, điều hiển nhiên là ngay khi đó những sự "cải đạo" thật là vô
nghĩa."
(The
Indians were often drawn together into "Christian villages" where,
under the scrunity of the Fathers, they were taught their catechism and
encouraged to forgo their "savage" practices for Christian customs
and virtues. Cut off from their own
people
and denied the self-sufficiency based on hunting, gathering and the cultivation
of their gardens, there was only one way for them to go. Judging from the
numbers baptized, the conversion rate was astonishing, which records of 8000,
10000 and even 14000 people being baptized in a single day. Bearing in mind
that the priests' grasp of the language was often feeble, that there was no
scripture in the vernacular and that the "converts" were totally
illiterate, it must have been evident even then that the
"conversions" were meaningless.)
Trên
đây là vài sự kiện về thực chất truyền giáo của đạo Ca Tô ở Phi Châu và Nam Mỹ.
Chúng ta thấy cũng những hình ảnh quen thuộc này ở Á Đông. Ca Tô Giáo Rô-ma đã
thành công ở Phi Châu và Nam Mỹ và phần lớn các quốc gia trong những lục địa
này trở thành hầu như toàn tòng Ca Tô Giáo. Nhưng trải qua mấy trăm năm dưới sự
lãnh đạo của Thập Giá và Lưỡi Gươm, các quốc gia ở Phi Châu và Nam Mỹ vẫn là
những quốc gia nghèo khổ và chậm tiến nhất trên thế giới. Có thể tin được chăng
những lời tuyên truyền của các nhà truyền giáo: theo Ki Tô Giáo thì sẽ trở nên
văn minh tiến bộ giàu có như các nước Âu, Mỹ? Trong Kinh Nhật Khóa của người
Gia Tô Việt Nam có đoạn ca tụng Thánh Phan-Xi-Cô Xa-vi-e là "lịnh rao
truyền tiếng đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ", vậy qua mấy trăm
năm rồi những dân theo Ca Tô Giáo Rô-ma đã hết mọi rợ chưa, và người Ca Tô Việt
Nam so với đại đa số người "lương" thì văn minh hơn hay mọi rợ hơn?
Tin Chúa mà không biết gì về Chúa, tin giáo hội mà không biết gì về giáo hội,
tin Thánh Kinh mà không biết gì về Thánh Kinh, vậy đó có phải là những biểu
tượng của sự văn minh tiến bộ hay không? Thế giới đã tiến xa trong mọi lãnh vực
kể từ thới Trung Cổ, các tín đồ Ca Tô vẫn còn giữ đầu óc của thời Trung Cổ (an
astrolabe mind), theo như nhận định của Linh mục Ernie Bringas, vậy đó có phải
là dấu hiệu củavăn minh tiến bộ hay không?
Cũng
như ở Phi Châu và Nam Mỹ, sự truyền bá đạo Ca Tô sang Á Đông luôn luôn song
hành với các lực lượng đế quốc thực dân Âu châu. Tuy nhiên, Ca Tô Giáo đã đụng
phải những nền văn hóa cao hơn văn hóa Gia Tô nhiều nên có thể nói là sự truyền
giáo của đạo Ca Tô Tây Dương đã hoàn toàn thất bại ở Á Đông trừ Phi Luật Tân.
Thật
vậy, trong cuốn Missionaries, trg. 165, chúng ta có thể đọc một đoạn nhận định
tổng quát về thành quả truyền giáo của đạo Ki Tô ở Á Đông như sau:
"Dù số tín
đồ gia tăng ở Nam Hàn, nhưng chỉ có Phi Luật Tân vẫn là quốc gia chính theo Ki
Tô Giáo ở Á Châu. Những thừa sai thành công ở đây vì có cùng những lý do họ đã
thành công ở Phi Châu, Nam
Mỹ và vùng vịnh Thái Bình. Các linh mục Gia Tô vào Phi Luật Tân theo những quân
chinh phục Tây Ban Nha và thấy ở nơi đây nhiều bộ lạc có nhược điểm là theo
những tôn giáo truyền thống của từng bộ lạc. Trong những hoàn cảnh như vậy,
Giáo hội đã đạt được một thắng lợi kỳ lạ khác.
Ở các nơi khác
ở Á Châu, sự tiến bộ trong công cuộc truyền giáo Ki Tô rất chậm, có thể nói là
không đáng kể. Bất cứ nơi nào mà các thừa sai đụng phải những nền văn hóa tôn
giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, hay Hồi Giáo thì dân chúng ở những nơi đây
đều cưỡng lại và đôi khi tỏ thái độ thù nghịch rõ rệt."
(Despite
gain in South Korea, the
Phillipines is still the only major Christian country in Asia.
The missionaries were successful there for the same reasons they were
successful in Africa, Latin America and
throughout the Pacific basin. Roman Catholic priests entered the Philippines on
the arm of the Spanish conquerors and found there numerous vulnerable tribes
adhering to their traditional religions. In these circumstances the Church
scored another extraordinary success.
Elsewhere
in Asia, Christian progress has been slow,
even negligible. Wherever missionaries have encountered other great religious
cultures such as Buddhism, Hinduism or Islam, the people have remained quite
resistant and sometimes downright hostile.)
Để
hiểu tại sao công vụ truyền giáo của các thừa sai Tây phương ở Á Châu lại thất
bại, tôi xin trích dẫn tóm tắt nhận định tổng quát về thực chất truyền giáo của
Ca Tô Giáo Rô-ma tại Á Châu của Avro Manhattan trong cuốn "Chủ Nghĩa Đế
Quốc của Gia Tô Giáo Và Sự Tự Do Của Thế Giới" ("Catholic Imperialism
and World Freedom", trg. 341 - 365):
"Những
công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo không bao giờ chỉ là thuần túy truyền giáo.
Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc làm
đạo quân tiền phong cho những kho hàng Tây phương, ngoại giao Tây phương, và
những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống
nhau: những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của
họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất
hiện. Sự chấp nhận, do tự nguyện hay do cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên
dương là chiến thắng của nền văn minh Ki Tô, và văn minh Ki Tô có nghĩa là bất
cứ cái gì có tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây
phương - sự thành công thường thường tùy thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội
ở ngoài khơi.
Những dân tộc
chậm tiến, nhưng có nền văn minh cao, mất đi nền độc lập của họ, văn hóa của họ
bị chế nhạo, màu da của họ bị coi như là dấu vết của nhục nhã, quá khứ, hiện
tại và ngay cả những khả năng thành đạt trong tương lai của họ bị khinh miệt và
coi thường... Trong lúc đó thì tôn giáo Tây phương thuyết giáo về "tứ hải
giai huynh đệ", nền dân chủ Tây phương, nhân quyền của mọi người, và lý
tưởng Tây phương về sự bình đẳng của mọi sắc dân.
Thực ra, từ khi
được cấy vào từ Judea, Ki Tô giáo đã trở thành tôn giáo của Tây phương, và từ
đó trở nên tôn giáo lớn nhất trên thế giới, không do sức mạnh của những nguyên
lý tinh thần mà do sự thống trị vật chất của người da trắng... Ki Tô giáo hiện
còn bị hầu hết Á Châu bác bỏ vì tôn giáo này được coi như biểu thị sự tham tàn
của thế giới Tây phương, của chủ nghĩa đế quốc Tây phương và của sự "ưu
việt của người da trắng".
Tuy nhiên, cho
rằng Á Châu đã loại bỏ Ki Tô Giáo chỉ vì nó là một phó sản của Tây phương là
sai lầm. Khoa học và Kỹ nghệ cũng là những phó sản của Tây phương, nhưng chúng
được đón nhận. Chủ nghĩa Marx là một phó sản của tư tưởng Tây phương, tuy nhiên
chỉ trong vài thập niên đã đủ để nó gây mầm mống khắp lục địa trong đó gần hai
ngàn năm nỗ lực của Ki Tô Giáo chỉ đưa tới một kết quả thê thảm.
Chủ nghĩa Cộng
Sản, như là nguồn cảm hứng cách mạng của thế giới, có ích hay có hại là tùy
theo quan niệm mỗi người. Nhưng sự lan tràn kỳ lạ của nó là một sự kiện. Nó đã
góp phần cho một sự thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu, cho sự nổi giậy mau
hơn của tinh thần quốc gia của Á Châu, và cho sự chống lại Ki Tô Giáo của Á Châu
quyết liệt hơn. (Chẳng trách là, cho tới bây giờ, Ca Tô Giáo Rô-ma vẫn coi CS
là kẻ thù nguy hiểm nhất, cần phải tiêu diệt bằng mọi thủ đoạn và lũng đoạn
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa v..v..)
Có thể nào một
sự rao truyền Ki Tô Giáo thuần khiết hay nguyên lý căn bản về "tứ hải giai
huynh đệ" đã gây nên phản ứng sâu rộng ở Á Châu như vậy? Nếu không thì
nguyên nhân căn bản nào đã, và đang gây nên phản ứng như vậy? Câu trả lời là:
chính trị Ki Tô Giáo. Chính trị Ki Tô Giáo đã đầu độc những sự giao thiệp Âu Á.
Ngay từ những ngày đầu tiên của Ki Tô Giáo ở Viễn Đông, Ki Tô Giáo, xuất hiện
dưới bộ áo tôn giáo, đã luôn luôn vươn lên như một lực lượng chính trị phục vụ
cho những cá nhân và quốc gia Tây phương. Tin Lành Giáo cũng phạm tội như là Ca
Tô Giáo. Giống như Ca Tô Giáo, các thừa sai Tin Lành luôn luôn làm tiền phong,
hoặc theo gót các con buôn, tàu chiến, và những đoàn quân xâm lăng. Tuy nhiên,
chính trị Tin Lành Giáo, dù phạm tội, không thể nào đồng hạng với Ca Tô Giáo.
Sự tác hại gây nên bởi chính trị Ca Tô Giáo (Công Giáo) ở Á Châu thì to lớn một
cách không thể nào so sánh được, hơn tất cả những sự tác hại gây nên bởi mọi
giáo hội Ki Tô khác cộng chung lại với nhau.
Không giống như
Tin Lành, những hoạt động của các thừa sai Ca Tô được phối hợp hoàn toàn với
những mục tiêu tôn giáo - chính trị chuyên biệt. Với chủ ý dùng quyền lực chính
trị để khuất phục những dân tộc Á Châu trong lãnh vực tôn giáo, Gia Tô Giáo đã
đầu độc những mối liên hệ giao thiệp Âu Á ngay từ lúc bắt đầu, và sự đầu độc
này đã góp phần hơn gì hết cho sự nghi ngờ bẩm sinh của dân tộc Á Châu đối với
Tây phương hiện còn âm dội trong mọi lãnh vực cho tới ngày nay.
Những yêu sách
chính trị của Giáo hội Ca Tô trên những quốc gia phi-KiTô bao giờ cũng liên kết
với những yêu sách tôn giáo. Bởi vì, bất cứ khi nào Giáo hội gửi các thừa sai
đi đến các nơi này, mục đích của Giáo hội là biến những người tân tòng thành
những tín đồ của Giáo hội và là thuộc hạ của Giáo hoàng. Hai điều này không thể
tách rời nhau được. Cũng như ở Tây phương, ở phương Đông, bất cứ nơi nào mà có
Giáo hội Gia Tô là ở đó có Vatican; nghĩa là, quyền lợi ngoại giao và chính trị
của Ca Tô Giáo.
Cho nên, những
thừa sai Ca Tô tự động biến đổi thành những "tác viên chính trị", tạo
thành nền tảng quyền lực chính trị của Ca Tô Giáo bất cứ nơi nào họ dựng lên
những cộng đồng Gia Tô.
Những hoạt động
tôn giáo - chính trị của Ca Tô Giáo như vậy thường tạo nên những ảnh hưởng sâu
rộng, với bản chất ghê tởm nhất, trên lịch sử nhân loại. Những hoạt động này đã
trở nên nguyên nhân trực tiếp của những thảm họa chính trị và quân sự trong
những sự giao dịch giữa Tây phương và Á Châu, những thảm họa mà người ta thường
tin là do những sai lầm, lòng tham lam, và sự thiển cận của những quốc gia đế
quốc, và không bao giờ là do sự lì lợm tôn giáo của Giáo hội Ca Tô, đường lối
ngoại giao lá mặt lá trái của Vatican, hoặc khát vọng thống trị cả hai lục địa
của Vatican mà thường khi làm nhơ nhuốc lịch sử hiện tại và góp phần làm cho sự
phương hại đến những giao dịch hòa bình của các dân tộc trên thế giới kéo dài
bất tận."
(Christian
missions were never solely Christian missions. They were invariably preceded,
accompanied, or followed by Western warehouses, Western diplomacy, and Western
armies. Whichever the sequence, the result was eternally the same: the partial
or total loss of the regional, national, and racial liberty of the Asiatics,
wherever and whenever the Cross and the Western Hat had made their appearance.
The voluntary or forced acceptance of both was proclaimed to be the victory of
Christian civilization, and Christian civilization came to mean whatever tended
to be dominant - in other words, whatever was Western - success very often
depending on the appearance of naval squadrons off the coasts.
Backward
and highly civilized peoples lost their independence; their cultures were
ridiculed, the color of their skin became a mark of opprobium; their past,
present, and even potential future achievements were scorned and despised...
This while, at the same time, Western religion preached universal brotherhood,
Western democracy, the rights of all men, and Western idealism the equality of
all races...
In
fact, since its transplantation from Judea,
Christianity had become Western, and since then had become the dominant world
religion, not through the strength of its principles but through the physical
dominance of the White race... Christianity is still spurned by most of Asia as being hopelessly identified with the rapacity of
the Western world, of Western Imperialism and of Western "White
supremacy".
To
think, however, that Asia has rejected
Christianity simply because it is a by-product of the West would be erroneous.
Science and industrialism are Western by-products; yet they are welcome.
Marxism is a by-product of Western thought, yet a few decades have sufficed to
plant its seeds throughout the continent in which almost two thousand years of
Christian efforts were spent with the most dismal result...
Whether
Communism, as the inspirer of a world revolution, is beneficial or harmful is
anyone's opinion. Its phenomenal spreading, however, is a fact. It has
contributed to a swifter awakening of Asia, to
a quicker emergence of Asian nationalism, to a fiercer Asian opposition to
Christianity.
Could
the mere preaching of an unadulterated Christianity or of the basic principle
of brotherhood of man have provoked such far-reaching Asiatic reaction?
If
not, what was, and, indeed what is, its fundamental cause? The reply is:
Political Christianity.
Political
Christianity has poisoned, at the very source,
Asiatic-Western
relations. Since its inception in the Far East,
Christianity, having appeared in the apparel of religion, has always emerged as
a political force at the service of Western individuals and nations.
Protestantism is as guilty as Catholicism. Like the Catholic, so also the
Protestan missionaries were invariably preceded or followed by traders,
gun-boats, or military expeditions. Political Protestantism, however, although
guilty, cannot be put on a par with Catholicism. The damage caused by political
Catholicism in Asia has been incommensurably greater than anything done by all
the other Christian
Churches put together.
Unlike
those of Protestantism, all its missionaries' activities were fully
co-ordinated and had specific religious-political goals. By purposely employing
political power to subdue Asiatic people in the religious field, Catholicism
poisoned Asiatic-Western relations from the very beginning, and this poisoning
has contributed, perhaps more than anything else, to the inborn suspicions of
the Asiatic people towards the West, which has reverberated in all fields to
our present
day.
The
political claims of the Catholic Church upon non-Christian lands are
inseparable from her religious one. This owing to the fact that, whenever
sending out her missionaries, her aim is to make the newly converted people
simultaneously members of the Church and subjects of the Pope.
The
two are inseparable. As in the West, so also in the East, wherever there is the
Catholic Church there also is the Vatican; that is to say, Catholic
diplomatic and political interests.
Catholic
missionaries, therefore, are automatically transformed ito "political
agents" and ultimately become the foundation stones of the political power
of the Catholic Church wherever they erect Catholic communities...
Such
Catholic religious-political activities have often produced far-reaching
effects, of a most nefarious nature, upon the history of mankind. They became
the direct cause of political and military disasters in Western dealings with
Asia; disasters popularly believed to be due merely to the blunders, rapacity,
and short-sightedness of imperalistic nations, and never to the religious
intransigence of the Catholic Church, to the diplomatic duplicity of the
Vatican, or to the thirst for domination of both which, very often, by
befouling the current of history, have contributed to the perennial detriment
of the peaceful relationship of the peoples of the world.)
Với
chính sách truyền đạo tệ hại như trên, hẳn chúng ta không lấy làm ngạc nhiên
khi thấy các dân tộc Á Châu cho tới ngày nay vẫn từ chối không chấp nhận Ki Tô
Giáo (gồm Chính Thống, Ca Tô và Tin Lành) nói chung, Ca Tô Giáo nói riêng, trừ
một thiểu số tình nguyện làm tôi tớ hèn mọn cho Vatican (Xin đọc câu
"Chúng con là những tôi tớ hèn mọn, sấp mình dưới chân các Đấng run sợ
dâng lên những lời dưới đây" trong bức thư gửi Giáo hoàng John Paul II của
12 môn đệ linh mục Nguyễn Hữu Trọng), hoặc "vô cùng sợ hãi Tòa Thánh, đến
nỗi..."Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm" (Nguyễn Văn Trung), trong
cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2), coi thị quốc Vatican (Vatican city)
trọng hơn ông bà tổ tiên đã sinh ra mình và đất mẹ đã nuôi dưỡng mình.
Để
độc giả có một ý niệm về bản chất cuồng tín của các nhà truyền giáo Ki Tô ngay
trong thời đại này, tôi xin trích dẫn sau đây một đoạn trong cuốn Missionaries,
trg. 186, nói về phương cách truyền giáo của Gia Tô Giáo ở Thái Lan:
"Ở Á Châu,
không có mấy nước mà các thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ
truyền giáo của họ sẽ không bị gián đoạn trong tương lai. Ngay cả dân Thái cũng
nhạy cảm đối với vấn đề thừa sai nếu sự
truyền giáo
không khéo xử, thái độ khoan dung của dân Thái có thể thay đổi. Hiện nay, trong
một nước mà 97 phần trăm theo Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người
theo Ki Tô Giáo hiển nhiên rất ít.
Sulak Siravaksa
là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki Tô. Tuy nhiên, ông ta rất lấy
làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là "địa hạt
của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỉ"; lên án
Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một
cách vô vọng."; và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì
không hiệp thông được với Thượng đế." Như Sulak đã vạch rõ, đó là ngôn ngữ
hàng ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng
nề đến những Phật tử Thái Lan."
(In
Asia there are few countries where
missionaries can feel completely confident of an uninterrupted future for their
work. Even the Thais are sensitive on the
subject
of missionaries and if evangelism is not carried out in a tactful manner, their
tolerant attitude may change. At present, in a country where 97 percent of the
population is Buddhist and 2 percent Muslim, there are obviously very few
Christians.
Sulak
Sivaraksa is a Buddhist intellectual who was educated in Christian schools. He
is, however, severely irritated by evangelical literature that describes Thailand as "the territory of Satan";
that declares "99 percent of Thais are in bondage to demons"; that
condemns Buddhism as "idolatry" and "a religion of hopeless
escapism"; and which insists that "without Christian revelation,
there is no relationship with God". As Sulak points out, this is the
everyday language of a certain kind of mission literature, which is deeply
offensive to Thai Buddhists.)
Vì
chính sách truyền đạo cuồng tín cố hữu như trên tại Thái Lan mà Phật Giáo Thái
đã phải chính thức gửi kháng thư cho John Paul II, phàn nàn về những việc làm
sai trái của Ca Tô Giáo ở Thái Lan, như sẽ được trình bày trong một phần sau.
Người
Việt chúng ta thường ngưỡng mộ thành quả canh tân đất nước của Nhật Bản và các
"sử gia" Ca Tô Việt Nam thường đổ trách nhiệm lên đầu các vua quan
triều Nguyễn là không biết noi gương Nhật Bản để canh tân đất nước. Nhưng bối
cảnh lịch sử của hai nước Nhật và Việt trong thế kỷ 19 hoàn toàn khác nhau.
Muốn hiểu tại sao Nhật Bản canh tân được mà Việt Nam lại không, chúng ta phải trở
lại lịch sử tiếp xúc của Nhật với Tây phương, và từ đó nhận ra sự khác biệt
giữa những điều kiện chính trị, xã hội của hai nước. Sự thành công của Nhật Bản
trong vấn đề canh tân đất nước dựa phần lớn vào thái độ dứt khoát, quyết liệt
của Nhật đối với Ca Tô Giáo như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Từ
đầu thế kỷ 16, Nhật Bản đã tiếp xúc với Tây phương qua những thương gia ngoại
quốc, nhất là những thương gia Bồ Đào Nha. Khi đó Nhật Bản hoan nghênh những sự
trao đổi ý kiến và trao đổi hàng hóa và mở cửa cho thông thương tự do. Tuy
nhiên, theo sau các thương gia là những thừa sai Ki Tô Giáo, nhất là những thừa
sai Ca Tô, tới để truyền đạo. Muốn hiểu hiện tượng trên, tưởng chúng ta cũng
nên nhắc lại là:
"Vào cuối
thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca Tô giáo cái quyền thống
trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu,
trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba Tây và tất cả những
đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng
này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp
các dân địa phương vào trong giáo hội Ca Tô. Do đó, đi cùng với những đoàn quân
xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của gìới linh mục đã biện minh cho những
hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi
là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Ca Tô."
(Missionaries,
trg. 132-133: By the end of the fifteenth century, Pope Alexander VI created
two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal
would take Brazil and
whatever could be seized in Asia and Africa.
It was decreed that along with territorial gains would go the duty to
incorporate any native peoples into the Catholic Church...With the invading
armies came priests and friars whose presence justified the subjugation of the
people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to
the faith.)
Các
thừa sai Ca Tô được sự ủng hộ nồng nhiệt của Nobugata, một lãnh chúa Nhật Bản
(1573-1582).
Nobugata,
ngoài việc cho phép các giáo sĩ tự do truyền đạo còn cấp đất cho họ ở Kyoto, cùng hứa hẹn cấp
cho họ một khoản tiền mỗi năm. Do đó, Ca Tô giáo lan tràn khắp nước, hàng ngàn
người theo đạo và các trung tâm Ca Tô mọc lên ở nhiều nơi trong nước Nhật.
Nếu
các giáo sĩ Ca Tô chỉ giới hạn trong việc truyền bá tình thương của đạo Chúa
thì chắc chắn Nhật Bản và các nước khác ở Á Châu sẽ để cho họ tự do, nhất là
Việt Nam, một dân tộc đã nổi tiếng là hiếu khách và không hề có chuyện kỳ thị
tôn giáo. Nhưng, do sự cực đoan tôn giáo của Ca Tô giáo là Giáo hội Ca Tô phải
thống trị giáo dân trong tất cả những lãnh vực tôn giáo, đạo đức, xã hội, chính
trị v..v.., kết quả là các cộng đồng Ca Tô ở Nhật Bản đều phải đặt dưới quyền
thống trị của Vatican.
Theo giáo điều Ca Tô, Giáo hội không cho phép những người dân Nhật theo đạo
phục tùng những người cầm quyền như là một người dân trong một nước. Những
người gia nhập Giáo hội Ca Tô đương nhiên tự biến họ thành những thuộc hạ của
Giáo Hoàng. Một khi sự t rung thành đã chuyển sang một thế lực ngoại quốc ở
ngoài đất Nhật, các giáo dân trở thành bất trung đối với những nhà cầm quyền
Nhật Bản. Điều này rất nguy hại cho sự an ninh của Nhật, quốc nội cũng như quốc
ngoại.
Vì
Ca Tô Giáo dạy rằng đạo Ca Tô là đạo duy nhất chân thật, các tín đồ Ca Tô Nhật
đã phát động tinh thần bất khoan nhượng tôn giáo, và khi ở vị thế có quyền
hành, tìm cách xóa bỏ các tôn giáo khác bằng bạo lực. Điều này đã gây nên những
xáo trộn trong xã hội. Bất cứ ở nơi nào mà Ca Tô giáo chiếm đa số trên đất Nhật
thì ở nơi đó Phật Giáo và các tôn giáo khác đều bị chèn ép. Chùa chiền bị phá
hủy, đóng cửa hay chiếm đoạt để làm nhà thờ. Trong nhiều trường hợp, Phật tử bị
cưỡng bách theo đạo, từ chối có thể bị tịch thu gia sản hay xử tử. (Những người
sống ở miền Nam, nhất là vùng Nam, Ngãi, dưới triều Ngô Đình Diệm chắc chắn
chưa quên những cảnh này).
Trước
tình thế quốc gia như vậy, những nhà cầm quyền Nhật Bản, Hideyoshi rồi Ieyasu,
thay đổi thái độ và bắt đầu từ năm 1614 Ieyasu đưa ra một chính sách để đối phó
với những xáo trộn mà các giáo sĩ và giáo dân Gia Tô giáo đã gây ra:
"Mọi công
dân Nhật theo đạo được lệnh phải bỏ đạo; các nhà thờ và tu viện Ca Tô bị phá
hủy, tài sản đất đai bị tịch thu, và tất cả linh mục ngoại quốc được lệnh phải
rời khỏi các xứ đạo, tập trung tại Nagasaki để chờ tống xuất."
Sắc
lệnh này chưa kịp thi hành thì "một sắc lệnh khác khe khắt hơn được ban
hành, và sự đàn áp tôn giáo trở thành tàn nhẫn hơn cho tới khi mọi vết tích
công khai của Ki Tô Giáo bị phá hủy."
(Missionaries:
A further decree, much fiercer in tone, set in train a ruthless persecution
that continued until all overt vestiges of Christianity had been destroyed.)
"Khi sắc
lệnh trục xuất thứ hai được ban hành, một số thừa sai rời khỏi nước Nhật nhưng
nhiều vị ở lại và toan tính tiếp tục gây dựng ngầm các xứ đạo. Tất cả đều bị
săn lùng và hành quyết.
Toàn thể các
cộng đồng Ki Tô phải chịu đựng những biện pháp cấm đạo. Họ bị cưỡng bức giẫm
lên hình tượng của Mẹ Maria bồng Con khắc trên những bản nhỏ, ai từ chối đều bị
hành quyết. Hình phạt thông thường là đóng đinh, nhưng được thay đổi một cách
ác độc, nạn nhân bị đóng đinh đầu ngược xuống đất và ở bờ biển. Khi thủy triều
lên họ bị chết ngộp dần dần."
(When
the second decree of expulsion was promulgated, a number of missionaries left Japan but many
remained and tried to continue their ministry in hiding. All of them were
hunted down and put to death.. . Whole communities were put to the test. They
were forced to trample upon a fumie, a small plaque bearing a carved image of
the Virgin and Child, and those who refused were executed. Crucifixion was the
usual fate, but, in a cruel refinement, the victims were crucified upside down
on the shoreline. As the tide came in, they slowly drowned. )
Vào
thời điểm này, những tín đồ Ca Tô ở Nhật bắt đầu tổ chức võ trang chống lại
chính quyền. Cuộc chiến bùng nổ vào mùa đông năm 1637 tại Shimbara và tại đảo
Amakusa, những vùng hầu như toàn tòng Ca Tô. Những cộng đồng Ca Tô này, cầm đầu
bởi các linh mục Tây phương, công khai chống lại chính quyền.
Chính
quyền Nhật, sợ rằng các toán giáo dân đó liên kết với những giáo dân Ca Tô Tây
phương và bị Bồ Đào Nha dùng làm phương tiện để chiếm đất đai của Nhật, đánh
thuế rất nặng trên những cộng đồng này. Các linh mục dòng Tên tổ chức một đạo
quân khoảng 30000 giáo dân Nhật, với cờ xí mang tên Giê-Su, Maria, Thánh Iago,
tiến quân đối đầu với đại diện chính quyền về dân sự và quân sự ở địa phương,
và nhiều cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra trong vùng Shimbara và vùng vịnh Nagasaki.
Giáo dân giết luôn Thống Đốc ở Shimbara và rồi cố thủ trong một thành lũy kiên
cố khi quân chính phủ kéo đến dẹp.
Với
vũ khí thô sơ, chính quyền Nhật phải nhờ đến sự trợ giúp của Hòa Lan (theo Tin
Lành) về súng đại bác và tàu chiến. Hòa Lan ưng thuận, và giúp chính quyền san
thành bình địa nơi cố thủ của các giáo dân và hầu như tất cả các giáo dân trong
đó đều bị tàn sát.
Kết
quả cuộc nổi loạn của giáo dân này là một đạo Dụ bài Ngoại của chính quyền Nhật
Bản ban hành năm 1639, Manhattan,
Catholic Imperialism and World Freedom, trg. 361:
"Trong
tương lai, chừng nào mà mặt trời còn soi sáng thế giới, không một ai được phép
nhập cảnh Nhật Bản, ngay cả với tư cách là đại sứ..."
(For
the future, let none, so long as the Sun illuminates the World, presume to sail
to Japan,
not even in the quality of ambassadors...)
Đạo
Dụ trên được áp dụng cho mọi nước Tây phương, trừ Hòa Lan vì Hòa Lan đã giúp
phương tiện cho chính quyền Nhật dẹp cuộc nổi loạn của các giáo dân Ca Tô.
Nhưng ngay cả đối với người Hòa Lan, họ cũng bị hạn chế tối đa. Lý do: tuy họ
không phải là tín đồ Ca Tô Giáo nhưng cũng là tín đồ Ki Tô Giáo. (Nevertheless,
even they were put under extreme restrictions owing simply to the fact that
although they were not Catholics they were Christians.)
Đối
với Nhật Bản khi đó, bất cứ cái gì liên hệ đến Ki Tô Giáo nói chung đều bị nghi
ngờ là có âm mưu lừa dối, chinh phục, và bất khoan dung.
Manhattan, (Ibid.,trg. 362):
"Người Hòa
Lan không được phép đọc ngay cả những lời cầu Kinh Ki Tô Giáo trước mặt một
công dân Nhật nào. "
(The
Dutch were not permitted to use Christian prayers in the presence of a single
Japanese subject).
Hiệp
ước thương mại giữa Nhật và Hòa Lan có những điều khoản như:
-
Không một tàu buôn nào của Hòa Lan được chở một tín đồ Ki Tô bất cứ quốc tịch
nào hoặc chuyên chở thư từ viết bởi tín đồ Ki Tô.
-
Hòa Lan phải báo cho chính quyền Nhật biết tình hình bành trướng của Ki Tô Giáo
ở ngoại quốc.
-
Mọi sách viết về những đề tài tôn giáo phải khóa kín, niêm phong trong các
rương hòm và trao cho chính quyền Nhật giữ trong suốt thời gian tàu cặp bến
Nhật.
(No
Dutch ship should carry a Christian of any nationality or convey letters
written by Christians.
The
Dutch should convey to the Japanese governor any information about the
spreading of Christianity in foreign lands that might be of interest.
All
books, especially those dealing with religious subjects, belonging to Dutch
ships had to be put into trunks, sealed, and turned over to the Japanese during
the period the ship was in port)
Với
những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca Tô Giáo nói riêng vàì Ki Tô
Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn
200 năm, trong thời gian này trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả
một linh mục thừa sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ
Ca Tô sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc
Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương
và cho truyền đạo lại vào năm 1854. Trước mối nhục vì bị thua kém về kỹ thuật
và súng ống này, Nhật Bản đã quyết tâm canh tân. Năm 1866, Nhật còn là một dân
tộc thuộc loại Trung Cổ. Chỉ trong vòng 33 năm, tới năm 1899, Nhật đã trở thành
một cường quốc không kém các nước Tây phương. Ngoài lòng yêu nước cao độ và
quyết tâm, yếu tố chính trong sự thành công canh tân của Nhật là một tình trạng
xã hội, chính trị ổn định, không có một đạo quân thứ 5 nằm vùng trong lòng dân
tộc và các thừa sai gián điệp chuyên gây xáo trộn trong các quốc gia để thủ lợi
về mặt tôn giáo cũng như về vật chất thế tục.
Missionaries,
trg. 169:
"Trong 24
năm đàn áp Ki Tô Giáo ở Nhật Bản, 62 thừa sai Tây phương đã bị hành quyết cùng
với hàng ngàn giáo dân Nhật. Phải tới hơn 200 năm sau Nhật mới lại mở cửa cho
các thừa sai trở lại, nhưng lòng của họ vẫn khép kín."
(During
the twenty-four years of the great Japanese persecution, sixty-two European
missionaries were put to death together with thousands of Japanese Christians.
It was to be more than 200 years before the Japanese would again open their
doors to missionaries but even then, they did not open their hearts.)
Một
câu ngắn gọn sau đây của Hal Dareff trong cuốn Câu Chuyện Việt Nam (The Story
of Vietnam, trg. 28,) có thể nói lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt
Nam trong thế kỷ 19:
"Đóng cửa
biên giới, họ (triều
đình Gia Long. TCN) sẽ tránh được sự
xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất hạnh thay,
trong nước đã có những người ngoại quốc rồi - Các giáo sĩ thừa sai."
(By
sealing off their borders, they would keep out the foreigner and his alien
ways. Unfortunately, there were already foreigners in Vietnam - The
Missionaries.)
Ở
Ấn Độ, hơn 400 năm nay Ki Tô Giáo đã vô cùng tích cực trong vấn đề truyền đạo
với hi vọng Ki Tô hóa Ấn Độ nhưng dân chúng Ấn, tuy nghèo khó và trước những
hứa hẹn về vật chất của Ki Tô Giáo, vẫn từ chối tôn giáo này. Số người theo Ki
Tô Giáo nói chung chưa lên tới 1% tuy chính quyền Ấn đã rất dễ dãi để cho những
nhà truyền giáo tự do truyền đạo.
Sự
dùng vật chất để ép những người ngoại đạo đang ở trong những hoàn cảnh khó khăn
về vật chất theo đạo lộ liễu đến mức một Ủy Ban Điều Tra Những Hoạt Động của
Các Giáo Sĩ Thừa Sai tại Ấn Độ đã phải đưa ra những khuyến cáo sau đây, trong
cuốn "Tín ngưỡng của người khác" ("The Faith of Other Men",
trg. 107) của Giáo Sư Wilfred Cantwell Smith, một nhà Thần học KiTô nổi tiếng,
Giáo sư môn Tôn Giáo Thế giới và Giám đốc trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế
giới tại đại học Harvard:
" Nên yêu
cầu những thừa sai mà mục đích chính là dụ người vào đạo phải rút lui. Số lượng
lớn các nhà truyền giáo ngoại quốc không được hoan nghênh và cần phải kiểm
soát.
Sự dùng các
dịch vụ y tế hay chuyên môn như là phương tiện trực tiếp để dụ người vào đạo
phải cấm bởi luật pháp.
Mọi toan tính
dùng vũ lực hay lừa gạt gian dối, hay đe dọa bằng những cách bất chính hay giúp
đỡ tài chính hay mọi sự trợ giúp khác, hoặc bởi những phương tiện hay hứa hẹn
lừa gạt gian dối, hoặc bằng sự giúp đỡ tinh thần và vật chất, hoặc lợi dụng sự
thiếu kinh nghiệm hay lòng tự tin của bất cứ người nào, hoặc bằng cách khai
thác nhu cầu, sự yếu kém về tinh thân (tâm thần) hay nhẹ dạ của bất cứ người
nào, hoặc, đại cương là mọi toan tính hay nỗ lực (dù thành công hay không),
trực tiếp hay gián tiếp thâm nhập vào ý thức tôn giáo của con người (dù đã
trưởng thành hay còn vị thành niên) thuộc tín ngưỡng khác, với mục đích thay
đổi ý thức tôn giáo hay tín ngưỡng của họ, để cho hợp với lý tưởng và niềm tin
của phe đi dụ người ta vào đạo, phải tuyệt đối cấm."
(Those
missionaries whose primary object is proselytization should be asked to
withdraw. The large influx of foreign missionaries is undesirable and should be
checked..
The
use of medical or other professional services as a direct means of making
conversions should be prohibited by law..
Any
attempt by force or fraud, or threats of illicit means or grants of financial
or other aid, or by fraudulent means or promises, or by moral and material
assistance or by taking advantage of any person's inexperience or confidence,
or by exploiting any person's necessity, spiritual (mental) weakness or
thoughlessness, or, in general any attempt or effort (whether successful or
not), directly or indirectly to penetrate into the religious conscience of
persons (whether of age or underage) of another faith, for the purpose of
consciously altering their religious conscience or faith, so as to agree with
the ideas of convictions of the proselytizing party should be absolutely
prohibited..)
Tại
sao người ta lại phải khuyến cáo như vậy nếu các công vụ truyền giáo của CaTô
giáo chỉ thuần túy là truyền giáo? Chúng ta cũng nên để ý rằng, hiện nay, ở Ấn
Độ đang có phong trào bài Ki Tô Giáo rất mạnh. Báo Los Angeles Times ngày 12
tháng 11, 1998, đăng một bài tường thuật dài của ký giả Dexter Filkins về những
hành động bài Ki Tô Giáo, nhiều khi dùng đến bạo lực, ở Ấn Độ. Một lãnh tụ của
phong trào bài Ki Tô Giáo, ông B. L. Sharma, tuyên bố:
"Chúng tôi
đã phải làm nô lệ cả ngàn năm, và nay chúng tôi đã sáng mắt rồi. Tôi đòi hỏi
chính phủ Ấn Độ phải đuổi cổ những kẻ đang dụ dân Ấn cải đạo, và phá hại văn
hóa, ngôn ngữ và y phục của chúng tôi."
(We
were slaves for 1000 years and now we have opened our eyes. I demand that the
government of India
throw out these people who are out to convert Hindus and ruin our culture,
language and attire.)
Ở
Trung Quốc , chúng ta đã biết, các giáo sĩ thừa sai toa rập với lực lượng thực
dân Anh đưa thuốc phiện vào đầu độc dân Trung Quốc và lợi dụng cuộc chiến tranh
nha phiến để truyền đạo. Nhưng lịch sử truyền đạo Ca Tô ở Trung Quốc là một
thất bại nặng nề cho các nhà truyền giáo Ca Tô. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trích
dẫn sau đây trong cuốn The Chinese
Looking Glass
của Dennis Bloodworth, trg. 170-173, viết về phản ứng của người Trung Hoa đối
với Gia Tô Giáo như thế nào:
"Từ thế kỷ
16 trở đi, các giáo sĩ dòng Tên đã được đón tiếp ở Bắc Kinh. Người ta nói rằng,
vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Minh đã cải đạo sang Ki Tô Giáo trước khi chết,
và con trai của bà đã được rửa tội với tên Constantine. Tuy các tín đồ Gia Tô căm phẫn
chính đáng về những sự kiềm chế tiếp tục ngăn cản sự tự do truyền đạo ở những
nơi khác trên đất Trung Quốc, căn bản căm phẫn của họ thật là yếu ớt một cách
lố bịch. Vì chính trong những khoảng thời gian này, Gia Tô Giáo đang tàn sát
những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và
Văn Phòng Thánh (Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo.) còn đang bận
thiêu sống những kẻ dị giáo từ Granada tới Goa.
Đối với người
trí thức Trung Hoa, các Thần (hay Thượng đế, hay Chúa, tùy theo cách gọi trong
các nền văn hóa khác nhau. TCN) là để cho những nông dân ngu dốt. Một Nho gia
lỗi lạc đã nói: "Không có ai ở trên trời phán xét tội lỗi." Tôn giáo
là thuốc phiện của những "người đần độn". Còn đối với đại chúng thì,
không làm gì có chuyện cứu rỗi, và như vậy, không làm gì có chuyện luận phạt
xuống địa ngục. Do đó, các học giả chỉ đánh giá đạo đức Ki Tô Giáo còn ngoài ra
coi những giáo sĩ dòng Tên như là các kỹ thuật gia khéo léo.
Nhưng đối với
một giáo sĩ thừa sai thì dân Trung Quốc phải chia thành hai: giáo dân Ki Tô và
những người ngoại đạo. Nhưng sự khó khăn ở đây là Trung Quốc không có danh từ
"ngoại đạo" vì các tôn giáo ở đây đã sống chung tốt đẹp với nhau và
hiểu rõ rằng chỉ có Khổng Giáo mới là đạo chính thức ở Trung Quốc. Tuy nhiên,
dần dần các quan lại Trung Quốc hơi ngạc nhiên khi thấy rõ rằng các tín đồ Ki
Tô không sẵn sàng để sống hòa hợp trong đại khối dân tộc với các tôn giáo khác
nhau, nhưng lại chống Khổng giáo bằng một tập hợp các qui luật của riêng họ.
Đó chính là lạc
đạo. Một người Trung Hoa khi trở thành một tín đồ Ki Tô thì không được coi như
là người Trung Hoa nữa. Cái xí nghiệp truyền giáo bị ngăn chặn, cấm đoán, rồi
lại được phép truyền đạo. Những tín đồ Ki Tô cuồng tín trong cuộc nổi loạn của
giặc Thái Bình (Người cầm đầu giặc Thái Bình là Hồng Tú Toàn, một tín đồ Ki Tô,
tự xưng là em của Giê-su, tự phong là Thái Bình Vương, chiến đấu cho cái gọi là
Thái Bình Thiên Quốc của Chúa Trời. TCN) đã làm nguy hại cho đức tin của họ khi
họ đánh mạnh vào giới văn thân, và khi đến lượt các thừa sai bị đối xử thô bạo,
giết chóc bởi những toán dân khác, thì giáo hội không được sự thương xót của
Bắc Kinh, mà còn bị Bắc Kinh rất đỗi nghi ngờ vì có vẻ như các quyền lực Tây
phương luôn luôn dựa vào những sự đối xử quá đáng đối với dân Chúa của họ để
mượn cớ đòi hỏi nhiều nhượng bộ hơn ở Trung Quốc.
Sau cuộc cách
mạng năm 1911, Ki Tô Giáo được coi như là mốt thời trang, vì những bộ óc mờ mịt
của những người hăng say thuộc đảng Cộng Hòa bị hoang mang bởi những ý niệm về
tự do và dân chủ. Nhưng rồi ngay sau đó họ đã vỡ mộng. Những thiệt hại đáng sợ
trong Đệ Nhất Thế Chiến đã làm cho các quan sát viên Đông phương tin chắc rằng
một giáo phái được gọi là cao quý mà lại gây ra những cảnh tàn sát tập thể như
vậy không thể nào là nguồn cứu rỗi của họ, và những sự tàn bạo trong Đệ Nhị Thế
Chiến đã củng cố cảm tưởng sơ khởi trên.
Ngày nay những
người Cộng Sản không tán thành những sự mê tín duy linh phi lý, và họ khoan
nhượng cho khoảng từ 2 tới 3 triệu tín đồ Ki Tô theo tín ngưỡng của mình một
cách đứng đắn mà không cần đến sự ban phúc của La Mã, và họ ủng hộ một phong
trào Phật Giáo lớn hơn, hướng dẫn bởi những người hiểu rằng "trước hết họ
phải có những trách nhiệm xã hội và những nhiệm vụ yêu nước" trước khi say
đắm trong sự xa xỉ tôn giáo."
(From
the sixteenth century onwards Jesuits were welcomed in Peking.
The last Ming empress, it was claimed, was converted to Christianity before she
died, and her son was baptized Constantine.
Although the Roman Catholics were full of righteous indignation about the
fetters that continued to hamper free missionary work in the rest of China, they
were on ridiculously weak ground. For this was the sorry period in which the
Catholics were butchering the Protestants of the Netherlands, the Huguenots
were being tortured by the thousands in France, and the Holy Office was busy
burning heretics from Granada to Goa.
To
the literate Chinese, gods were only for ignorant peasants. As a prominent
neo-Confucian had laid down: "There is no man in the sky judging
sin." Religion was the opiate of the "stupid people." For the
rest, there was no personal salvation or, come to that, damnation. The scholars
therefore appreciate only the ethics of Christianity and otherwise regarded the
Jesuits as clever technicians...
For
the missionary, China
must be divided into Christians and heathens. But the difficulty was that the
Chinese simply had no word for "heathen," for religions had rubbed
along well enough together in the Middle Kingdom on the strict understanding
that Confucianism was the only official creed. Nevertheless, it gradually
became clear to the slightly astonished mandarins that the Christians were not
prepared to be stitched into the patchwork quilt made up of the rest, but were
challenging Confucian doctrine itself with a rival set of rules of their own.
This
was heresy. A Chinese who became a Christian could no longer be regarded as
Chinese. Missionary enterprise was hampered, then forbidden, then permitted
again. The "Christian" fanatics of the Taiping rebellion perilously
compromised the faith by smitting scholars in the name of Jesus, and when it
was the turn of the missionaries to be manhandles and murdered by other Chinese
mobs, the Church did not earn sympathy in Peking, but even greater distrust,
for it seemed that the Western powers always made these excesses against their
men of God to pretext for seizing more concessions in China...
After
the revolution in 1911, Christianity enjoyed a certain vogue, for it was confused
in the muddles minds of eager Chinese republicans with liberty and democracy.
But disillusion soon followed. The frightful toll of World War I persuaded
Orientals onlookers that a gentle cult productive of so much mass murder held
no salvation for them, and the atrocities of World War II confirmed the initial
impression...
Today
the Communists frown upon reasonless, animistic superstition, tolerate in the
best traditions two
to
three million Catholics in China,
who "lead a proper spiritual life" without the blessing of Rome, and patronize a much
bigger Buddhist movement led by men who understand they must "first bear
their socialist responsibilities and fulfill their patriotic obligations"
before indulging in the luxury of religion.)
Chúng
ta đã thấy, qua những tài liệu về sự thất bại của công vụ truyền giáo của Gia
Tô Giáo ở Á Đông. Á Đông đã dứt khoát tù chối một tôn giáo mà từ những tín lý,
lễ nghi cho tới những cung cách cư xử của những giáo sĩ thừa sai Gia Tô, hoàn
toàn không hợp với người Á Đông. Chẳng thế mà trong những nước lớn ở Á Châu như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan... số người theo Ki Tô Giáo nói chung,
rất là ít ỏi, có thể nói là không đáng kể. Thống kê mới nhất cho biết số tín đồ
Ki Tô ở Ấn Độ vào khoảng 1%, ở Thái Lan cũng vậy, chỉ khoảng 1%, ở Nhật Bản
chưa tới 1%, và ở Trung Quốc chỉ vào khoảng 4 phần ngàn và không lệ thuộc
Vatican. Buồn thay, ở Việt Nam,
số tín đồ Gia Tô lên tới 8% và còn hoàn toàn nô lệ Vatican.
Nền
văn minh kỹ thuật Âu Mỹ, đã một thời vượt xa Á Đông, nhưng từ trước cũng như
cho tới ngày nay, về vấn đề đạo đức và tâm linh thì đối với người Á Đông, Âu Mỹ
vẫn còn trong tình trạng chưa khai hóa. Trong Kinh Nhựt Khóa của người Gia Tô
Việt Nam
có câu: "Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao truyền tiếng Đức Chúa Thánh
Thần cho những dân mọi rợ". Người Ca Tô Việt Nam đã coi ông bà tổ tiên và
cả dân tộc mình là dân mọi rợ, trong khi thực ra thì câu trên phải được viết là
"Ông Thánh Phan-Xi-Cô Xa-Vi-e là lịnh rao truyền "tiếng nói mọi
rợ" của Đức Chúa Thánh Thần cho những dân tộc văn minh mà về phương diện
tôn giáo và tâm linh đã vượt xa và tiếp tục vượt xa những dân tộc Âu Mỹ mê tín
và cuồng tín."
Để
biện hộ cho những tội ác của Ca Tô Giáo Rô-ma đối với nhân loại và sách lược
truyền đạo bạo tàn, man rợ của Giáo hội Gia Tô, người ta thường viện câu: tôn
giáo nào cũng tốt cả, cũng đều dạy con người làm lành tránh ác, vậy bản chất
của mọi tôn giáo đều tốt cả. Nhưng trên thực tế thì có phải như vậy không? Nếu
cùng tốt cả, cùng dạy con người làm lành tránh ác cả thì tại sao lại có tôn
giáo không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền đạo hơn 2500 năm như
đạo Phật, và tại sao lại có cảnh xương chất thành núi, máu chảy thành sông trên
vai lịch sử của Ca Tô giáo? Con người Tây phương vẫn tự hào là văn minh tiến bộ
hơn các dân tộc khác, và sự truyền đạo là để "văn minh hóa" những dân
tộc này, nhưng tại sao lại có sự khác biệt giữa phương cách truyền đạo trong
tinh thần từ bi của đạo Phật và phương cách truyền đạo hết sức man rợ của Ca Tô
Giáo mà kết quả là nhiều triệu người phải chịu đựng những cảnh tra tấn, tù đầy,
giết chóc? Các tín đồ Gia Tô giải thích làm sao về sự khác biệt này? Nếu cho
rằng đó là ý của Chúa, thì hơn 80% số người trên thế giới đã có lý khi họ từ
chối một tôn giáo mà lịch sử đẫm máu của nó không thể nào có thể làm mờ nhạt đi
được.
Có
phải vì vậy mà ngày nay các dân tộc văn minh trên thế giới đều dần dần rời bỏ
cái tôn giáo mà họ đã phải chịu đựng gần 2000 năm nay, đến nỗi các nhà tuyền
giáo ngày nay đã coi Âu Châu như là vùng truyền giáo quan trọng nhất trên thế
giới để khôi phục niềm tin của dân chúng trong vùng này. Tôi sẽ trở lại tình
trạng Ca Tô Giáo ở Âu Châu với vài con số thống kê mới nhất trong một phần sau.
Các học giả nghiên cứu về tôn giáo đã đồng thuận ở một điểm: sự khác biệt giữa
lịch sử truyền giáo của Phật Giáo và Ca Tô Giáo nằm ngay trong chính giáo lý
của mỗi tôn giáo. Giáo lý Phật Giáo thì khỏi cần bàn tới vì trong suốt hơn 2500
lịch sử của Phật Giáo chúng ta không thấy một cuộc chiến tranh tôn giáo nào
cũng như chưa từng thấy khi nào Phật Giáo dùng đến bạo lực để tra tấn, hành hạ,
thiêu sống những người không cùng quan điểm với Phật Giáo, hoặc dùng những thủ
đoạn phi luân để dụ hay cưỡng bách người khác tín ngơỡng vào đạo Phật. Người ta
chỉ thấy Vua A Dục buông gươm xuống và chinh phục chư hầu bằng lòng từ bi theo
giáo lý Phật Giáo, sau khi được giáo lý Phật Giáo cảm hóa. Nhưng còn giáo lý
KiTô giáo thì sao? Nó nằm ngay trong hai cuốn Cựu Ước và Tân Ước, gọi chung là
Thánh Kinh. Sau đây tôi sẽ lược duyệt một số tài liệu phân tích nội dung Thánh
Kinh để chứng tỏ rằng những sách lược tàn bạo của Giáo hội Ca Tô Rô-ma đối với
nhân loại bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối vào cuốn Thánh Kinh, được tin như là
ghi chép những lời mặc khải của Thượng đế, và được tin là không thể sai lầm. Do
đó, Giáo hội đã theo sát những lời dạy của Chúa trong Thánh Kinh, đi khắp nơi
trong thế giới để truyền bá "đức tin Ca Tô" bằng bạo lực, cưỡng ép,
và giết chóc.
Những
gì mà quần chúng được dạy để tin mà không cần đến lý lẽ Vậy thì ai có thể phủ
bác niềm tin này bằng lý lẽ?
(What the populace learned to believe without reasons,
Who could refute it then by means of reasons)?
(Friedrich Nietzche)
CHƯƠNG V
THÁNH KINH KI-TÔ GIÁO
Có
thể nói cuốn Thánh kinh là cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới. Trong phương
trời Âu Mỹ trước đây, hầu như mỗi nhà tín đồ KiTô giáo nói chung đều có ít nhất
là một cuốn Thánh kinh, thường được dùng làm vật trang trí hay vật hứng bụi
(dust collector) vì chẳng có mấy ai đọc nó. Nhưng đây cũng là một cuốn sách mà
người ta đã đưa lên bàn mổ để nghiên cứu, phân tích, thẩm định giá trị khả tín
v...v.. kỹ nhất và đầy đủ nhất. Người ta đã phân tích từng câu từng chữ trong
Thánh Kinh, tìm hiểu xuất xứ, ai viết và viết bao giờ? Thí dụ, một nhóm khoảng
200 học giả chuyên về Thánh kinh (Bible experts) thuộc mọi tông phái trong KiTô
giáo đã cùng nhau nghiên cứu Thánh kinh trong nhiều năm, từ 1985, và có những
phiên họp định kỳ để bỏ phiếu về những câu mà người ta cho rằng Gìê-Su nói ở
trong Thánh Kinh và những phép lạ Giê-Su làm, được kể trong Thánh kinh. Thể thức
bầu phiếu của họ là đưa ra 4 loại nút màu khác nhau: Nếu nhà khảo cứu cho rằng
lời nói hay phép lạ đó "đúng" là Giê-Su nói hay làm thì bỏ nút màu
đỏ, "không đúng" thì nút màu đen, "có thể đúng" thì nút màu
hồng, "có thể đúng, có thể không" thì nút màu xám. Kết quả? Giê-Su
KHÔNG NÓI 80% những điều ghi trong Thánh kinh và Giê-Su CÓ THỂ chỉ có khả năng
chữa lành một số bệnh tâm thần liên hệ đến sự cử động của thân thể
(psychosomatic) hay mẩn da (skin rashes). Ngoài ra, Giê-Su KHÔNG HỀ thực hiện
một phép lạ nào như đi trên nước, làm yên một cơn bão tố ngoài biển, hay cứu
người chết sống lại, đuổi quỷ ám ra khỏi người, biến nước thành rượu v..v..,
tất cả chỉ là vay mượn từ các huyền thoại Hi Lạp của thi sĩ Homer (The Seminar
scholars believe the Gospel writers borrowed from the Greek poet Homer), hoặc
phóng đại quá mức để nhấn mạnh đến quyền năng của Giê-Su (The Seminar fellows
suggest that the Gospel writers exagerated the stories in order to emphasize
Jesus' power). Tôi xin nhắc, đây là công việc nghiên cứu trí thức của chính các
chuyên gia KiTô giáo chuyên môn về mọi ngành, dựa trên rất nhiều tài liệu và sự
kiện lịch sử viết bằng cổ ngữ, văn bản gốc Thánh kinh viết bằng tiếng Hi Lạp,
những sự kiện khoa học v..v.., chứ không phải của những người ngoại đạo.
Về
cuốn Thánh Kinh, học giả Lloyd M. Graham (Ibid., trg. 5) viết như sau:
"Cuốn
Thánh Kinh không phải là "lời của Thượng đế" mà là những cóp nhặt từ
những nguồn tài liệu dân gian. Vườn Địa Đàng, Adam và Eve được lấy từ các
chuyện của dân Babylone; trận "lụt cả" hay Hồng thủy chỉ là sự phóng
đại của khoảng 400 câu chuyện về những trận lụt; chuyện cái tàu lớn của Noah
chúng ta có thể thấy trong cả tá những huyền thoại về Hồng thủy; ngay cả tên
các con của Noah cũng là những tên cóp nhặt, cũng như những chuyện như hi sinh
Isaac, phán xét Solomon, Samson xô đổ cột; cái tên Moses cũng lấy từ tên Mises
của dân Syrie, các luật của Thượng đế lấy từ luật của Hammurabi. Đấng cứu thế
được dẫn xuất từ đấng cứu thế Madhi của Ai Cập, một vài câu được chép lại
nguyên văn từ kinh điển Ai Cập. Giữa Giê-su và nhân vật Horus của Ai Cập,
Gereald Massey kiếm thấy 137 điểm tương tự, và giữa đấng Ki Tô và Krishna có
đến cả vài trăm điểm giống nhau. Làm sao mà Thánh Kinh có thể coi là những lời
mặc khải của Thượng đế?"
(The
Bible is not "the word of God" but stolen from pagan sources. Its
Eden, Adam and Eve were taken from the Babylonian account; its Flood or Deluge
is but an epitome of some four hundred flood accounts; it Ark and Ararat have
their equivalents in a score of Deluge myths; even the names of Noah's sons are
copies, so also Isaac's sacrifice, Solomon's judgment, and Samson's pillar act;
its Moses is fashioned after the Syrian Mises; its laws after Hammurabi's code.
Its Messiah is derived from the Egyptian Mahdi, Savior, certain verses are
verbatim copies of Egyptian scriptures. Between Jesus and the Egyptian Horus,
Gerald Massey found 137 similarities, and those between Christ and Krishna run into the hundreds. How can the Bible be a
revelation?)
Nhưng
có lẽ nhận xét tổng quát sau đây của một học giả Ca Tô sẽ cho chúng ta biết rõ
hơn về cuốn Thánh Kinh:
Trong
cuốn "Những vị Thần cuối cùng của
Huyền Thoại: GiaVê và Giêsu" ("Mythology's Last Gods: Yahweh and
Jesus", p. 16), Tiến sĩ William Harwood, một tín đồ GiaTô đã tỉnh ngộ và
bỏ được một niềm tin sai lầm sau khi nghiên cứu lịch sử các tôn giáo trong đế
quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí tích" ăn thịt uống máu Chúa
(Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng cái bí tích rùng rợn này hàng tuần và
trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước khi Giêsu ra đời, và rằng các Thần hay
Thượng Đế (Gods) chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của con người (Dr.
Harwood..discovered that the "god-eating" ritual in which he
participated weekly as a believing Christian had existed three thousand years before
Jesus' birth. Not for three years, however, could he fully abandon the
disproved beliefs to which he had been emotionally committed, and acknowledge
that gods are as imaginary as fairies), đã viết:
"Người ta
đã khám phá ra rằng, từng quyển một trong Thánh Kinh đều chứa những sai lầm về
sự kiện, những phỏng đoán không chính xác, những kỹ thuật làm hợp lý hóa, những
điều tiên tri về những sự việc đã xảy ra, ghép với những điều tiên tri về tương
lai đã được chứng tỏ là không chính xác, và không còn sai lầm gì nữa là chứa
những lời nói láo cố ý. Nếu sự khám phá này được phổ biến tới đại chúng thì cái
huyền thoại Do Thái - KiTô đã bị quật nhào bởi một cơn gió lốc khó có hi vọng
phục hồi.
Trước nguy cơ
bị loại bỏ này, Giáo Hoàng đương thời (John Paul II) bổ nhiệm một số sử gia của
chính ông ta để khảo sát những kết luận về Thánh Kinh của những sử gia thế tục
và tìm ra trong những bằng chứng của họ những sơ hở mà Giáo Hoàng tin rằng thể
nào cũng phải có. Kết quả là những sử gia của Giáo Hoàng cũng phải xác nhận là
Thánh Kinh của họ thực ra chỉ là một ảo tưởng sai sự thực. Họ phúc trình kết
quả lên Giáo Hoàng, và khi Ngài lập tức dẹp bỏ cái phúc trình này đi thì họ
không còn là tín đồ CaTô nữa. Rồi Giáo Hoàng ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền
của Ngài phát minh ra một phương pháp luận khác để đánh đổ phương pháp của
những sử gia trên, một phương pháp luận được tạo ra với mục đích rõ rệt là phải
đi đến kết luận là cuốn Thánh Kinh của Do Thái - KiTô không phải là một tác
phẩm hoang đường, không cần để ý đến chuyện phải xuyên tạc những bằng chứng đến
cỡ nào để đi tới mục đích trên. Cái phương pháp luận đó là "Thần
học"...
Đó là quyền lực
của chính trị Thần quyền của thế giới mà, mặc dù đã có hàng ngàn tác phẩm
nghiên cứu và bài khảo cứu phủ bác toàn bộ Thánh Kinh Do Thái - KiTô, cho tới
ngày nay, 90% dân chúng trong những xã hội mà tôn giáo chính là KiTô Giáo không
hềbiết đến sự hiện hữu của những bằng chứng bất khả phủ bác là quyển Thánh Kinh
chỉ là một tác phẩm giả tưởng."
(One
by one the various books of the bible were discovered to contain errors of
fact; inaccurate guesses; rationalizations; prophecies ex-post-facto, usually
combined with prophecies of the future that proved inaccurate; and
unmistakable, deliberate lies. Had this discovery been allowed to reach general
public, Judeo-Christian mythology would have suffered a blow from which it
could not have hoped to recover.
Facing
elimination, the current Pope appointed his own historians to examine the
secular historians' conclusions and find the flaw in their evidence that he
believed must be there. The outcome was that the Papal historians confirmed
that their bible really was falsifiable fantasy. They presented the Pope with
their reports and, when he promptly suppressed them, they all ceased to be
Catholics. So the Pope ordered his propaganda machine to invent an alternative
methodology to combat that of the historians, a methodology created for the
specific purpose of reaching the conclusion that the Judeo-Christian bible is
nonfiction, no matter how severely the evidence had to be distorted in order to
achieve that objective. That methodology was 'theology'..
...Such
was the power of the world's theocracies that, despite the publication of
thousands of scholarly books and articles refuting every part of the Judeo-Christian
bible, to this day the existence of unchallengeable proof that the bible is a
work of fiction is unknown to ninety percent of the population of
Christian-dominated societies.)
Có
bao nhiêu tín đồ Ca Tô Giáo Rô-ma biết được điều này, và có bao nhiêu tín đồ Ca
Tô tin được điều này? Có bao nhiêu tín đồ Ca Tô đã đọc những tác phẩm của những
chuyên gia phê bình Thánh Kinh từng câu, từng chữ một và vạch ra những điều sai
trái trong Thánh Kinh, trái ngược hẳn với những lời giảng lệch lạc, méo mó,
ngoài toàn bộ vấn đề (out of context) của hàng giáo phẩm Gia Tô, những người
dựa trên một niềm tin không suy luận, tự cho mình cái độc quyền có khả năng
hiểu và giảng Thánh Kinh, coi thường và hạ thấp trí tuệ của các tín đồ?
Chúng
ta đã thấy Giáo hoàng và Giáo hội đã dùng những thủ đoạn lừa dối như thế nào để
duy trì quyền lực trên đám tín đồ kém hiểu biết. Tại sao Giáo hội phải làm như
vậy? Vì quyền lực thế tục cũng như tài sản của Giáo hội Ca Tô Rô-ma tùy thuộc ở
số đông tín đồ nên Giáo hội rất sợ tín đồ biết đến cái bản chất thực sự của
Giáo hội cũng như những sai lầm trong Thánh Kinh, những sai lầm mà chính giáo
hoàng hay giáo hội cũng không thể phủ nhận. Chúng ta cũng nên nhớ rằng đã một thời
Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, vi phạm luật này có thể bị xử tịch thu tài
sản, bị vạ tuyệt thông, hay bị tử hình. Về sự việc này, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ
(Ibid., trg. 43), đã viết như sau:
"Tôi mới
đầu không hiểu tại sao Giáo hội cấm không cho giáo dân có Kinh Thánh hay đọc
Kinh Thánh, nhất là bằng Quốc Ngữ. Dần dà tôi mới thấy sự cấm đoán đó hết sức
là hữu lý, vì nếu cứ để cho giáo dân đọc Kinh Thánh, dần dà họ sẽ bới ra được
những cái dở của Kinh Thánh, những chỗ dịch sai, dịch bậy của Kinh Thánh, những
chỗ thêm, bớt vào Kinh Thánh.... Ngày nay người ta đã bới móc ra rằng Kinh
Thánh có nhiều đoạn mâu thuẫn nhau; năm quyển Cựu Ước đầu tiên không phải do
Maisen viết mà do nhiều người viết về sau này; Jeremiah, Daniel cũng do nhiều
người viết ở nhiều thế kỷ khác nhau; Thánh thư cho giáo đoàn Hebrews, Thánh thư
Thessalonians II, Thánh thư Peter II không phải do Paul và Peter viết ra. Thực
là điên cái đầu..."
Nhưng
trong Thánh Kinh không phải chỉ có những sai lầm và mâu thuẫn, mà ngay cả căn
bản tín lý cứu rỗi của Chúa Giê su cũng đã bị bác bỏ trước những khám phá mới
nhất của khoa học. Trước những khám phá mới về nguồn gốc con người và vũ trụ,
tuổi của vũ trụ, của trái đất, của loài người v..v.., thuyết sáng tạo trong
Thánh Kinh đã hoàn toàn bị bác bỏ. Không làm gì có chuyện một ông Thượng đế
toàn năng sáng tạo ra vũ trụ và mọi vật trong đó trong 6 ngày rồi mệt phải nghỉ
ngày thứ bảy, cách đây khoảng hơn 6000 năm. Không làm gì có chuyện Adam và Eve
là tổ tiên loài người và sa ngã, cho nên không làm gì có chuyện "Tội tổ
tông". Không có tội tổ tông thì không ai cần ai cứu rỗi, do đó, vai trò
cứu rỗi của Chúa Giê su là chuyện hoang đường và trở thành khôi hài. Và cũng
hoang đường không kém là chuyện Chúa "thăng thiên", vì thân xác con
người, sau khi chết, không thể tự nhiên bay lên trời, chống lại sức hút của
trái đất, trái với định luật vạn vật hấp dẫn, như một số người có đầu óc khuyết
tật vẫn còn tin vào một huyền thoại "bay lên trời" kể ra cách đây gần
2000 năm về một người Do Thái, Giê su, mà tiểu sử thuộc loại bất minh, đầy mâu
thuẫn. Làm sao chúng ta có thể hiệp thông vĩnh viễn cùng Chúa ở trên Thiên
Đường khi chúng ta không hề biết Thiên đường ở đâu, và niềm tin "Chúa đang
ở trên Thiên đường" chẳng qua chỉ là điều "Giáo hội dạy rằng",
nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn nếu không muốn nói là một cái bánh
vẽ trên trời. Đã có ai từ Thiên đường trở về trần gian và khẳng định là Chúa
đang ở trên Thiên Đường? Thiên đường, nếu có, là ở trong tâm con người chứ
không phải là ở một nơi nào đó, thí dụ như trên vòm trời mô tả trong Thánh
kinh, mà ta mong lên đó sau khi chết. Cái vòm trời Thiên đường tưởng tượng này,
có những cánh cửa mở ra để các thiên thần đổ nước xuống thành mưa, của những
người viết Thánh Kinh với trí tuệ của những người bán khai, ngày nay đã bị kính
thiên văn của Galileo Galilei và những khám phá mới của khoa học làm rớt ra
từng mảng. Với những kính thiên văn tân kỳ nhất, các khoa học gia đã quan sát
khắp vũ trụ, từ những thiên hà cách xa trái đất hằng triệu năm ánh sáng cho tới
những khối tinh vân cách chúng ta cả tỷ năm ánh sáng, nhưng không thấy Thiên
đường ở đâu. Giả thử Thiên đường ở xa hơn nữa, tận cùng vũ trụ, nghĩa là cách
xa chúng ta khoảng 15 tỷ năm ánh sáng, thì Chúa, mới chết cách đây có 2000 năm,
dù có "thăng thiên cả hồn lẫn xác" với vận tốc của ánh sáng, vận tốc
giới hạn của mọi vật chất, cũng còn nhiều tỷ năm nữa mới lên tới Thiên đường.
Vậy chuyện các tín đồ tin rằng sẽ được hiệp thông với Chúa ngay sau khi chết
phải chăng chỉ là chuyện không tưởng?
Có
lẽ vì vậy mà, sau nhiều năm nghiên cứu, từ năm 1985, Hội nghị các chuyên gia Ki
Tô Giáo nghiên cứu về nhân vật Giê Su (The Jesus Seminar), gồm khoảng 200 học
giả thuộc mọi tông phái trong Ki Tô giáo, đã viết trong tác phẩm "Ngũ
Kinh" (The Five Gospels, trg. 2) như sau:
"Chúa Ki Tô
(Giê Su) của tín điều và tín lý, trong thời Trung Cổ đã là một niềm tin vững
chắc, không còn thuyết phục được những người (khoa học gia) đã nhìn thấy những
vòm trời (như trong Thánh Kinh mô tả. TCN) qua Kính Thiên Văn của Galileo.
Những Thần Thánh và Quỷ dữ cổ xưa đã bị quét ra khỏi những vòm trời đó bằng cái
kính đáng kể này. Copernicus, Kepler, và Galileo đã triệt phá những trụ xứ
huyền hoặc (Thiên đường) của các Thần (hay Thượng Đế) và Satan và để lại cho
chúng ta những thiên đường thế tục."
(The
Christ of deed and dogma, who had been firmly in place in the Middle Ages, can
no longer command the assent of those who have seen the heavens through
Galileo's telescope. The old deities and demons were swept from the skies by
that remarkable glass. Copernicus, Kepler, and Galileo have dismantled the
mythological abodes of the gods and Satan, and bequeathed us secular heavens.)
Đối
với những người ngoại đạo và đối với các khoa học gia thì thiên đường chỉ là
một sản phẩm tưởng tượng của con người để tự an ủi trước những khó khăn của đời
sống hiện tại, cho nên họ không quan tâm đến một cái bánh vẽ trên trời. Đây
cũng không phải là mối quan tâm của hơn 4 tỷ người trên thế giới không tin,
không theo đạo Chúa. Nhưng đối với những tín đồ của đạo Chúa tin rằng Thánh
Kinh là những lời mặc khải không thể sai lầm của Thượng đế, do đó tin rằng có
Thiên đường có Hỏa ngục, tuy không biết ở đâu, thì họ cần biết rõ Chúa đang ở
đâu để mà hiệp thông với Chúa. Điều này họ có thể biết được nếu họ chịu khó đọc
Thánh kinh với một chút logic trong đầu.
Trong
cuốn "Holy Bible: The New King James Version" hoặc cuốn "The
Holy Bible: The New International Version", Chúa phán:
Matthew
5: 22: "Nhưng kẻ nào chê người khác là " đồ điên" thì sẽ bị đày
hỏa ngục" (But whoever says "you fool" shall be in danger of
hell fire.)
Nhưng
rồi sau đó, Chúa chê những người khác:
Matthew
23: 17: "Đồ điên và mù! Cái nào lớn hơn, vàng hay đền thờ Thánh hóa
vàng?" (Fools and blind! For which is greater, the gold or the temple that
sanctifies the gold?)
Matthew
23: 19: "Đồ điên và mù! Cái nào lớn hơn, đồ cúng hay bàn thờ Thánh hóa đồ
cúng?" (Fools and blind! For which is greater, the gift or the altar that
sanctifies the gift?"
Vậy
bây giờ Chúa đang ở đâu? Tôi nghĩ chẳng cần phải thông minh cho lắm cũmg có thể
trả lời được câu hỏi này.
Đọc
Thánh Kinh tôi nhận thấy tin theo Chúa kể cũng khá mất nhân vị: khi thì bị mắng
là chó, khi thì bị mắng là đồ điên và mù, khi thì bị mắng là Satan (Phê rô),
khi thì bị rủa là đồ rắn độc, bị đày đọa hỏa ngục v..v.. Hình ảnh của một Chúa
nhân từ, được rao giảng là thương yêu người v..v.. , quả thật không phù hợp với
những ngôn từ Chúa nói trong Thánh Kinh.
Có
bao nhiêu tín đồ Ca Tô biết được rằng, trong giới trí thức và khoa học, Giáo
Hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Big Bang và thuyết Tiến Hóa, và như vậy
là Giáo hoàng mặc nhiên phủ nhận thuyết Sáng Tạo trong Thánh Kinh, phủ nhận
huyền thoại Adam và Eve, căn bản của thuyết về tội tổ tông, và cuối cùng phơi
bày sự vô nghĩa của vai trò Cứu Thế của Giê-su Ki-Tô. Nhưng, như Tiến sĩ
William Harwood đã trình bày ở trên, giáo hoàng vẫn dùng những phương tiện
không chính đáng về cách diễn giải Thánh Kinh để giữ đám đông tín đồ kém hiểu
biết, dù rằng những diễn giải này không được chấp nhận trong giới khoa học và
trí thức, và chính Giáo hoàng cũng không tin và tự biết rằng những diễn giải
này không có giá trị thuyết phục trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ. Nhưng
chúng ta phải công nhận là "nghệ thuật" diễn giải Thánh Kinh này của
giáo hội đã rất có hiệu quả trong vấn đề duy trì một niềm tin không suy luận,
không cần biết, không cần hiểu, nơi đa số tín đồ ít học, kém hiểu biết, nhất là
ở trong các nước kém mở mang.
Tôi
nghĩ không có bao nhiêu tín đồ Ca Tô biết những sự kiện trên, vì nếu biết thì
cả một nền tảng tín ngưỡng bị sụp đổ. Con người, nhất là những người dân bình
thường, kém hiểu biết và tinh thần yếu đuối, cần một cái gì dựa vào để được yên
tâm, tự an ủi. Đối với đám tín đồ ngày ngày phải đương đầu với những sự đói
khổ, khó khăn vật chất như ở Nam Mỹ, Châu Mỹ La Tinh, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân
và ở một sô quốc gia kém mở mang ở Á Châu thì một sự hứa hẹn về một Thiên Đường
sau khi chết quả thật là một niềm an ủi lớn lao. Niềm an ủi này là khát vọng
chung của đám đông tín đồ trong những tôn giáo độc Thần Tây phương. Vì đời sống
hiện tại của họ không có mấy hi vọng sáng sủa nên họ hi vọng một đời sau tốt
đẹp hơn. Họ không hề biết đến một sự kiện: tất cả chỉ là những hứa hẹn không
thể kiểm chứng được, và từ xưa tới nay không có một ai, kể cả Chúa Giê Su và
mấy trăm Giáo Hoàng trong quá khứ, đã từ Thiên đường trở về để cho lớp người
đang sống biết thế nào là Thiên Đường. Giáo hội biết rõ tâm lý này nên đã triệt
để khai thác sự yếu kém của đám tín đồ đông đảo, dùng mọi cách để nuôi dưỡng
những tín lý của giáo hội trong đám tín đồ thiếu hiểu biết để duy trì một hệ
thống quyền lực, một hệ thống sống trên một niềm tin không suy luận mà giáo hội
đã gieo vào đầu óc của những con người chất phác, yếu đuối, ngay từ khi còn
nhỏ, trí tuệ chưa mở mang. Chẳng thế mà nhà trí thức Gia Tô Đỗ Mạnh Tri, trong
cuốn "Ngón Tay và Mặt Trăng", cũng đã cho rằng: "Tin là một cách sống, chết; không liên quan gì
đến cái biết, cái hiểu."
Cộng
với cái tâm cảnh nói trên, để giữ tín đồ, giáo hội thường che dấu những sự thực
về lịch sử giáo hội cũng như những sai lầm của giáo hội và về giáo lý Ca Tô,
cùng lúc dùng những biện pháp như đe dọa "tuyệt thông"
(excommunication), nghĩa là không cho phép tín đồ được hưởng những "bí
tích" thuộc loại mê tín dị đoan, mê tín dị đoan vì chúng không phù hợp với
những sự kiện khoa học và cũng không thể giải thích được cho nên giáo hội đã
gán cho chúng một nhãn hiệu "bí tích" để làm bặt mọi lý luận, mọi
thắc mắc nơi tín đồ, hoặc như đe dọa đày đọa vĩnh viễn xuống một "Hỏa
Ngục" tưởng tượng, đối với đám tín đồ ít học, kém hiểu biết, tinh thần yếu
ớt và đã bị mê hoặc từ thuở mới lọt lòng mẹ ra đời với niềm tin là Giáo Hoàng
hay Tòa Thánh Vatican thực sự giữ cái chìa khóa cửa Thiên Đường, và do đó giữ
cái quyền cho hay không cho tín đồ hiệp thông với Chúa..
Ngày
nay, các học giả nghiên cứu về luận lý (logic) để duy trì quyền lực của Giáo
hội Ca Tô Rô-ma đã cho rằng đó là một kiểu kuận lý vòng vo, luẩn quẩn
(convoluted logic), nhưng cái vòng này lại có tác dụng giam giữ đám tín đồ kém
hiểu biết, vì một cái bánh vẽ trên trời (Từ của Linh mục Bringas: A
Pie-in-the-Sky), nên không hề thắc mắc. Cái luận lý vòng vo của Giáo hội Gia Tô
nó như sau:
-
Quyền lực của Giáo hội là dựa trên Tân Ước mà Thượng đế đã linh ứng (inspire)
cho các tông đồ viết.
-
Làm sao chúng ta biết được là Thượng đế đã linh ứng cho các tông đồ?
-
Vì "Giáo hội dạy rằng" như vậy.
-
Tại sao chúng ta phải tin những lời "Giáo hội dạy rằng"?
-
Vì Giáo hội là tiếng nói của Thượng đế.
-
Căn cứ trên cái gì mà bắt chúng tôi phải tin như vậy?
-
Căn cứ trên những bằng chứng trong cuốn Tân Ước viết bởi những tông đồ đã được
linh ứng.
-
Làm sao chúng ta biết được là Thượng đế đã linh ứng cho các tông đồ?
-
Vì "Giáo hội dạy rằng" như vậy.
Và
cái vòng luận lý này cứ tiếp tục như vậy, không bao giờ chấm dứt, bất kể là
ngày nay, chúng ta đã biết, cuốn Tân Ước được viết sau khi Chúa bị đóng đinh cả
mấy chục năm, trong đó có những tác giả chưa bao giờ gặp Chúa, biết Chúa, như
Thánh Phao Lồ, và chứa không ít mâu thuẫn, những lời "tiên tri" về
những sự việc đã xảy ra, hoặc những lời tiên tri về những sự việc không hề xảy
ra, những phép lạ không hề có v..v....
Sau
đây chúng ta sẽ lược duyệt một số nhận xét tổng quát về cuốn Thánh Kinh và tác
dụng của nó trên con người.
David
Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University),
trong cuốn "Cuốn Thánh Kinh Mang
Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The Bad News Bible: The New
Testament", trg. 1 - 2) đã viết như sau:
"Vấn đề là
người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất
là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì. Hầu hết đều lầm, họ chỉ quen thuộc với vài
đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không
những Thượng đế trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn
(nghĩa là Giê-Su; TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới mức hoàn hảo khá xa. Thông
điệp của Giê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn
cảnh không chắc chắn. Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang
tới tin xấu."
(The
problem is that people think they know what's in the Bible, or at least what
kind of material it contains. Most of them are wrong: they are only familiar
with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God
is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his son seems
in the New. The message of Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain
prospect at best. Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible.)
Linh
mục Ernie Bringas viết về ảnh hưởng của sự tin mù quáng vào Thánh kinh như sau
(Ibid., trg. 17):
"Trải
qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Kinh Thánh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin
mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi người Do Thái vàì những người phi Ki-Tô,
giết hại và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý
tôn sùng, và nhiều lầm lạc khác. Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt
này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền năng
tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh."
(Over
the past centuries, bibliolatry has led Christians in bigotry, the persecution
of Jews and other non-Christians, murder and terrorism, the oppression of
women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality, and other
aberrations. The destructive behavior patterns can be easily traced to the
unchallenged authority accorded biblical writing.)
Lloyd
Graham luận về trách nhiệm tội lỗi của con người như sau (Ibid., trg. 425):
"Chúa Ki
Tô cầu nguyện (Chúa
Cha): "Cha hãy tha thứ cho họ vì
họ không biết là họ đang làm gì". Người cha duy nhất của Chúa Ki Tô hay
của con người là một nguyên lý thiên nhiên, và nguyên lý này không ý thức được
những gì nó tạo ra. Làm sao mà nó có thể tha thứ những tội lỗi của con người?
Đã làm cho con người man rợ và ngu đần, làm sao nó có thể kết tội con người?
Nếu cái tên Ki Tô không biết gì về siêu hình học này (Giê-su) mà có chút kiến
thức nào về luật nhân quả, thì lời cầu nguyện của hắn phải đọc ngược lại - Con
người, hãy tha thứ cho Thượng đế, vì hắn không biết là hắn đã làm gì. Tất cả
cuộc sống đều chứng tỏ cái sự kiện thê thảm này, cho nên vấn đề không phải là
Thượng đế có tha thứ tội lỗi của con người hay không, mà là con người có thể
tha thứ cho Thượng đế hay không? Bảo rằng con người gây ra những sự đau khổ cho
chính mình vì cái "nguyên tội" (hay tội tổ tông) là một sự xuyên tạc sự thật. Cái "tội" đó
là tội của Thượng đế - sự tạo ra vật chất, nguồn gốc của những sự xấu ác. Nhưng
Thượng đế lại không gánh chịu sự đau khổ bởi những tội lỗi do chính mình gây
ra, hắn bắt con người phải gánh sự đau khổ."
(Christ
prayed: "Father forgive them for they know not what they do." The
only father of Christ or man is a natural principle, and this is not conscious
of what it creates. How then can it forgive man for his sins? Having made man
savage and ignorant, how can it hold him guilty? Had this metaphysically
ignorant Christ possessed any knowledge of Causation, his prayer would read in
reverse - Man, forgive God, for he knows not what he does. All life attests
this tragic fact, so the question is not, Will God forgive man for his sins?
but can man forgive God for his cruelty? That man caused his own suffering
through an "original sin" is a perversion of the truth. That "sin"
was God's - the creation of matter, the source of evil. But God does not suffer
for his sins, he lets man do it.")
Ingersoll
(Ibid., trg. 119) viết về những tác hại của Thánh Kinh và của niềm tin vào Chúa
trên nhân loại:
" Nhân
danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu
người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi
như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những
người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn
sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong phúc âm của hắn
chúng ta thấy cái tín lý về sự đau khổ vĩnh viễn, và những lời của hắn đã gia
thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với
thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên
cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn
và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt
tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được
viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."
(In
Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned,
tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In
his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and
his followers have shed the blood of the wisest and the best. In his name the
progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was
found the dogma of eternal pain, and his words added an infinite horror to
death. His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual
honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base
and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of
man.
It
would be far better had the New Testament never been written - far better had
the theological Christ never lived.)
Điều
chắc là những tín đồ Ca Tô hầu như rất ít người đọc cuốn Thánh Kinh, khoan nói
đến chuyện đọc những tác phẩm nghiên cứu kể trên. Cũng vì vậy họ chỉ biết tới
một vài đoạn chọn lọc được giảng với ý nghĩa nằm ngoài toàn bộ Thánh Kinh (Out
of context) bởi những chức sắc Ca Tô, những người đã được huấn luyện rất kỹ về
"nghệ thuật" trích dẫn và giảng Thánh Kinh. Robert G. Ingersoll, một
tư tưởng gia lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đã đưa ra một thách đố: ông sẽ
tặng một giải thưởng là $100 (năm 1890) cho vị linh mục hay mục sư nào dám lên
bục giảng, giảng những đoạn mà chính Ingersoll trích dẫn từ Thánh kinh. Trong
nhiều năm, không có một người nào nhận lời thách đố này cả. Một người có óc suy
luận tối thiểu có thể mường tượng ngay ra là nội dung những đoạn đó trong Thánh
Kinh nó như thế nào.
Cũng
vì vậy mà Ira Cardiff, một khoa học gia, đã đưa ra nhận xét sau đây:
"Hầu như
không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín
đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy
nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn.
Nếu một người
thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt
bỏ nó đi."
(Virtually
no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a
Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it - much less reads
all of it.
If
an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject
it.)
Trên
đây chỉ là những nhận định rất tổng quát của một số học giả, linh mục về cuốn
Thánh kinh. Qua những nhận định trên chúng ta không thể biết gì về nội dung của
cuốn Thánh kinh. Muốn biết rõ về nội dung cuốn Thánh kinh chúng ta cần trích
dẫn nhiều đoạn trong đó. Nhưng tôi xin phép quý độc giả cho tôi được miễn phần
này vì những đoạn trích dẫn sẽ không phù hợp với tiêu chuẩn luân lý đạo đức của
Việt Nam.
Thay vì trích ra để dẫn chứng, tôi chỉ xin nêu sau đây 3 tài liệu, qua 3 tài
liệu này quý độc giả có thể ít ra là mường tượng được nội dung cuốn Thánh kinh
và ảnh hưởng của nó trên nhân loại ra sao.
1.
Trong cuốn "Quyển sách của
Ruth"
("The Book of Ruth", trg. 6-8 & 59-60), Ruth Hurmence Green, một
phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình GiaTô và trong nền giáo dục GiaTô, đã
viết như sau:
"Không có
cuốn sách nào mà trong đó mạng sống con người, thật ra là mọi mạng sống, lại rẻ
rúng như vậy. Cái vị Chúa ác ôn của Cựu Ước ra lệnh cho dân Do Thái giết, cưỡng
hiếp, và tra tấn không thương sót toàn thể dân chúng nhiều quốc gia, "trẻ
thơ và sơ sinh, thiếu niên và trinh nữ, và người già cả." Nếu họ không
tuân lệnh thì chính họ sẽ chịu sự thịnh nộ thù hằn của Chúa. Những con cưng của
Chúa đã vâng lời Chúa tàn sát nhiều ngàn người, xé xác những phụ nữ đang mang
thai, quật con nít vào đá, để các đầu lâu vào trong những sọt và chặt chân tay
những nạn nhân của họ. Cái kẻ tội phạm vô tiền khoáng hậu này (Chúa) đã nhận chết đuối toàn thể nhân loại trừ gia đình của
một tên say rượu (Noah). Hắn đã khiến cho trái tim của Pharaoh thành chai đá
nên đã giết tất cả các trẻ sơ sinh ở Ai Cập. Vì sự tái sinh của hắn trên trái
đất (nghĩa
là sự sinh ra của Giê-su) mà trong một
vùng rộng lớn mọi bé trai dưới hai tuổi đều bị giết (bởi Herod). Có thể bảo tôi được chăng là mạng sống con người là
thiêng liêng đối với Chúa?
Cuốn Tân Ước
cũng không ủng hộ gia đình như là một ưu tiên của dân KiTô giáo. Giê-Su không
những khinh khi chính gia đình hắn, mà trong một trường hợp, còn từ chối nói
chuyện với gia đình của mình (Mathew 12: 46-49) nhưng lại đòi hỏi những người theo hắn phải từ bỏ gia
đình họ, nói rõ rằng kẻ nào muốn làm đệ tử hắn thì phải bỏ tất cả những gì mình
có (Luke
14:33).
Cuốn Thánh Kinh
đã được dùng trong nhiều thế kỷ để sát hại nhiều triệu mạng người, và Ki-Tô
giáo đã phá nát gia đình, như Giê Su đã hứa hẹn: "Ta sinh ra để làm cho
con nghịch với cha, con gái nghịch với mẹ, con dâu nghịch với mẹ chồng, và
những người trong nhà thành kẻ thù của nhau." (Matthew 10: 35-36). Trong Ngày Phán Xét các gia đình sẽ bị tan nát. Vậy
ai là kẻ còn có thể cho rằng cuốn Thánh Kinh ủng hộ gia đình hay đời sống của
con người?
Không có một
trang sách nào trong Thánh Kinh mà không làm tôi bất bình về một phương diện
nào đó. Thật ra, sau mỗi lần tìm hiểu Thánh Kinh tôi lại muốn đi tắm rửa sạch
sẽ với xà bông "lye" của bà nội. Và khi tôi thấy Thánh Kinh coi
thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng nó ra cuối phòng. Tôi nguyện không bao
giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. Thomas
Paine, đấng cứu rỗi thực sự của thế giới, đã tố cáo cuốn Thánh Kinh thay tôi:
"Tôi thành thật ghê tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự độc ác."
Nhưng không
phải trong đó chỉ có những sự ác độc và những sự tàn bạo không thể tưởng tượng
được. Nếu là chuyện tục tĩu, bạn sẽ thấy nó trong cuốn sách này. Nếu là chuyện
dâm ô, bạn sẽ thấy nó trong Thánh Kinh, và bạn không cần phải mất công tìm
kiếm. Tôi không khuyên bạn mở ra bất cứ trang nào và đọc cái đoạn nó đập vào
mắt bạn đầu tiên. Bạn có thể vi phạm luật kiểm duyệt. Nếu luật kiểm duyệt được
thi hành một cách chặt chẽ, cuốn Thánh Kinh sẽ phải bán dấu diếm dưới quầy
hàng"
(There
is no other book in which human life, all life in fact, is so cheap. The
fiendish Lord of the Old Testament orders the Jews to kill, rape, and torture
without pity entire nations, "infant and suckling, young man and virgin,
and the man with gray hair." If they do not obey, they feel the wrath of
the Lord's vengeance themselves. His favorites dutifully massacre thousands,
rip up pregnant women, and dash little ones against the stones, putting heads
in baskets and mutilating their victims. This criminal of all time drowns the
entire population of the world except for the family of a drunkard. He hardens
Pharaoh's heart to make it possible to put all the first born of Egypt to the
sword. He comes to earth incarnate in such a manner that all male children
under two in a vast area must be killed, again with the edge of the sword. Tell
me, if you can, that human life is sacred to the Lord.
...The
New Testament yields little support for the family as even a Christian
priority. Jesus not only shows contempt for his own family, even refusing to
speak to them on one occasion (Matthew 12: 46-49) but demands that his
followers abandon theirs, specifying that those who wish to be his disciples
must "forsake all that he hath." (Luke 14:33)
...The
Bible has been used for centuries to persecute millions of human beings, and
Christianity has decimated families as Jesus promised it would: "For I
have come to set a man at variance against his father, and the daughter against
her mother, and the daughter-in-law against her mother-in-law. And a man's foes
shall be they on his own household." (Matthew 10:35-36) On Judgment Day
families will be torn apart. Does anyone still presume to picture the Bible as
pro-family and pro-life?
...There
wansn't one page of this book that didn't offend me in some way. In fact, after
a session of searching the scriptures, I always wanted to take a bath with
Grandma's lye soap. And when I encountered the Bible's disdain for women, I
very often almost pitched the good book across the room. I vowed never to be
seen in public with an unconcealed Bible in my hands. Thomas Paine, the true savior
of the world, denounced the Bible for me: "I sincerely detest it as I
detest everything that is cruel."
But
it wasn't only the cruelty and the unimaginable atrocities. If there is
obscenity, you'll find it in this book. If there is pornography, you'll find it
in the scriptures, and you won't even have to search. I don't advise opening
aimlessly and reading aloud the first passage that meets the eye. You might
violate a censorship law. Strict censorship would mean that the Bible would
have to be sold from under the counter.)
2.
Trong cuốn "Kinh Tình Thương Đối
Với Tội Ác"
("The Gospel of Love Vs Crime", trg. 6-7), Jack Bays
viết như sau:
"Tín điều
về sự đầy đọa vĩnh viễn là tín điều của những kẻ ác ôn. Hãy nghĩ tới hàng ngàn
trẻ con và những người vô tư mà đời sống của họ chất đầy ảm đạm.
Những giáo lý
này đã trải phủ trái đất với những đống xương vàng của những người dị giáo và
học giả. Chúng ta thấy sự đàn áp ngoại đạo của Constantine, Clovis, Justinian,
Theodosius và Charlemagne; chúng ta thấy những cuộc thánh chiến trong đó có tới
20 triệu người bị giết; chúng ta thấy sự tàn sát bừa bãi đàn ông, đàn bà, trẻ
con ở Jerusalem bởi Godfrey - thấy những nhà thờ Hồi giáo chồng chất từng đống
thây người Saracine - những người Do Thái bị thiêu sống trong các giáo đường Do
Thái; chúng ta thấy Coeur de Lion tàn sát hàng ngàn những người bị bắt; sự cướp
bóc và tàn sát ở Constantinople bởi dân Frank; chúng ta thấy dân Moor bị đuổi
ra khỏi Tây Ba Nha trong những cuộc tàn sát đẫm máu, cảnh giết hại dân
Huguenots và Waldenes, sự tàn sát những nông dân Đức, sự tan hoang của Ái Nhĩ
Lan - Hòa Lan phủ đầy máu; chúng ta chứng kiến Smithfield và Bartholomew (các cuộc tàn sát
nhiều ngàn người vì tôn giáo; TCN),
chúng ta thấy Tòa Hình Án xử Dị Giáo với những hình cụ tra tấn ác ôn không thể
đếm xuể; chúng ta thấy Auto-da-fé (cuộc lễ sau phiên tòa xử dị giáo, trao nạn
nhân cho chính quyền hành hạ và thiêu sống; TCN), - nơi mà những người bị kết án là dị giáo bị chế riễu
rồi dẫn đi tra tấn hay thiêu sống; chúng ta thấy con người bị căng ra trên cái
giá, bẻ trẹo khớp xương, và chân tay bị xé ra; chúng ta thấy họ bị lột da sống
- thân xác đẫm máu của họ bị đóng dấu bằng sắt nung đỏ; chúng ta thấy con người
bị phủ đầy hắc ín rồi thiêu sống; chúng ta thấy họ bị ném từ trên các chòi cao
xuống đường phố, đầu dọng xuống đất; chúng ta thấy họ bị chôn sống; chúng ta
thấy họ bị treo cổ và cắt ra từng mảnh; chúng ta thấy họ bị những móc sắt hơ
nóng móc lòi con ngươi ra... lưỡi họ bị kéo ra---xương họ gẫy nát---mình họ bị
cả ngàn mũi kim đâm vào; chúng ta thấy những bà già bị trói chặt vào chân những
con chiến mã hung hăng, và hàng triệu người bị tra tấn bởi những hình cụ ác ôn
mà các bọn cuồng tín tôn giáo có thể nghĩ ra, Bọn người này nhận được quyền lực
trực tiếp từ Thượng đế vì mọi điều này được dạy ngay trong Thánh Kinh. (Tác giả mô tả những
sự kiện trong lịch sử CaTô giáo cùng những cảnh tra tấn trong các tòa hình án;
TCN).
Thật vậy, đó là
những gì mà giáo hội GiaTô đã mang tới cho thế giới, thay vì hòa bình và tình
huynh đệ của phúc âm về tình thương. Những điều trên đã làm cho GiaTô giáo
thành một tôn giáo đẫm máu nhất như chưa có tôn giáo nào làm đen tối mặt trái
đất như vậy. Trong thế kỷ vừa qua, hơn 90% các cuộc chiến tranh là chiến tranh
của người KiTô giết người KiTô hay giết người ngoại đạo. Tất cả những chiến cụ
khủng khiếp; bom nguyên tử, hơi độc, phi cơ chiến đấu , v...v... đều là phát
minh của người KiTô giáo. Trong bất cứ cuộc chiến nào cũng có những người giảng
đạo, linh mục, mục sư ở mỗi phe cầu nguyện và thúc đẩy sự giết chóc như là
Jehovah (Chúa
Cha) già nua tàn bạo đã làm cho dân Do
Thái khi họ tàn sát dân chúng trong vùng đất hứa, chiếm đoạt nhà cửa, gia súc
và cả con gái của họ."
......"
Đức quốc xã giết những người Do Thái chỉ vì những việc mà tổ tiên của họ làm
trước đó 50 hay 100 năm. Điều này có đúng hay không? Không, nhưng thế còn mười
lần đúng hơn là luận phạt con người vì một tổ tiên, Adam, làm 6000 năm về
trước.
Đức quốc xã lùa
dân Do Thái vào các phòng sát sinh và giết họ trong vòng vài phút.
Thần trong
Thánh Kinh hứa vứt con người vào trong một cái hồ lửa, không cho họ chết mà giữ
họ hấp hối trong đó vĩnh viễn. Thật là tệ hơn Đức quốc xã tới cả 10000 lần.
...Giá thử
những người KiTô lúc đầu được phép quảng bá kinh về tình thương thì cái bản
chất độc đoán, hiếu chiến của dân Tây phương đã đỡ đi và những cảnh đổ máu và
cực khổ mà chúng tôi kể trên đã có thể tránh được.
Chúng ta có thể
thấy điều này qua sự quan sát ảnh hưởng của kinh về tình thương trên những dân
tộc Đông phương. Lịch sử lúc đầu của Ấn Độ cũng đẫm máu như lịch sử của mọi
nước khác, bộ Bách Khoa Tự Điển ghi như vậy, nhưng sau khi kinh về tình thương (của đức Phật; TCN) truyền tới họ thì bản chất của họ thay đổi, và họ trở
thành những người yêu hòa bình và có lòng từ bi đối với mọi sinh vật.
Vua A Dục là
một lãnh chúa chưa từng thất trận, nhưng khi kinh về tình thương yêu được giảng
cho ông ta thì ông ta đã buông gươm xuống và sau đó chinh phục mọi thứ bằng
tình thương và tình huynh đệ. Ông ta đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để
truyền bá cái thông điệp đó."
(The
dogma of everlasting torment is the dogma of fiends. Think of the thousands of
children and simple-minded adults whose lives have been filled with gloom!
These teachings have strewn the earth with the yellow bones of heretics and
scholars. We see the persecutions of Constantine, Clovis, Justinian,
Theodosius, and Charlemagne; we see the crusades in which twenty million were
killed; we see the indiscriminate massacre of men, women and children in
Jerusalem by Godfrey--see the mosques piled seven deep in murdered
Saracines--Jews burn in their synagogues; we see Coeur de Lion slaughtering
thousands of captives; the Franks pillaging and slaughtering in Constantinople;
we see the Moors expelled from Spain in bloody slaughter, the murder of the Huguenots
and Waldenes, the slaughter of the German peasants, the desolation of
Ireland--Holland covered with blood; we witness Smithfield and Bartholomew; we
see the Inquisition with its countless instruments of fiendish torture; we see
the Auto-de-fe,-where heretics clad in mockery, are led to torture and to
death; we see men stretched upon the rack, disjointed, and torn limb from limb;
we see them flayed alive--their bleeding bodies seared red-hot irons; we see
live men covered with pitch and set on fire; we see them hurled headlong from
towers to the street; we see them burried alive; we see them hanged and
quartered; we see their eyes bored out with heated augers -- their tongues torn
out--their bones broken--their bodies' pierced with a thousand needles; we see
aged women tied to the heels of fiery steeds and on and on were millions
tortured by every fiendish device that cankered minds of religious fanatics
could devise. They had authority direct from God for all of it right there in
their Bibles.
Yes,
this is what the church brought upon the worid ; instead of the peace and
brotherhood of the gospel 'of love. It has made Christianity the bloodiest
religion that ever darkened the face of the earth. In the last century 90% of
all the wars have been Christian wars with Christians slaughtering Christians
or someone else. All of the hellish war rnachines; atomic bombs, poison 'gas,
war planes, etc., have been Christian inventions, made and used by Christian
nations. In every war there have been preachers priests and rabbis on each side
praying
and
urging on the slaughter just as old brutal Jehovah did for the Israelites while
they were massacreing the people of the promised land, to take their homes,
their stock and their daughters.)
....The
Nazis killed the Jews just because of things their ancestors did in Germany 50 or
100 years before. Was that right? No, but it was ten times more right than to
punish people for what an ancestor, Adam, did 6,000 years ago.
The
Nazi brutes herded the Jews into chambers and snuffed their lives out within a
few minutes.
The
Bible God is pledged to put people into a lake of fire and not let them die but
keep them there in agony forever. That is 10,000 times worse than the Nazis
ever were.
Had
the early Christians been allowed to go on promoting the gospel of love the
tyrannical, aggressive nature of the people of the West would have been allayed
and most of the bloodshed and misery we have mentioned would have been avoided.
We can see this by observing the effects of the gospel of love on the peoples
of the East. The early history of India was as bloody as any country,
says the Britanica but after the gospel of love was brought to them their whole
nature was changed, and they became peaceloving and kind to all creatures.
King
Asoka was a victorious war lord whose armies had never known defeat but when
the gospel of love was presented to him he laid down his sword and did all of
his conquering after that by love and friendship. He spent the rest of his life
in spreading that message.)
Có
vẻ như những người truyền giáo Ki-tô giáo không hề biết đến những nghiên cứu
mới nhất về cuốn Thánh Kinh của Ki-tô Giáo. Cho nên trong thời đại này mà họ
vẫn viện dẫn Thánh Kinh, coi nó như là những lời mạc khải của một ông Thiên
Chúa mà họ tin, nên không thể sai lầm. Để thấy rõ vấn đề, chúng ta hãy điểm qua
vài đoạn bài giảng của Mục sư Nguyễn Hữu Ninh với vài nhận xét nho nhỏ để chúng
ta cùng thấy trình độ hiểu biết về Thánh Kinh của một ông Mục Sư Tin Lành Việt
Nam ngày nay, từ đó có thể suy ra trình độ hiểu biết về Thánh Kinh của những
tín đồ Tin Lành và do đó có thể nhận rõ sự nguy hại của những đầu óc Tin Lành.
Sau đây là vài đoạn điển hình trong bài giảng của Mục sư Nguyễn Hữu Ninh. Chúng
ta để ý những đoạn này không khác với những lời giảng đạo tập sự của một số tân
tòng Tin Lành như Nguyễn Huệ Nhật, Huỳnh Thiên Hồng, Lê Anh Huy v..v..,
Thánh Kinh là
bộ sách Thánh của hai thời đại Cựu và Tân Ước. Ki Tô Giáo (Christianity) trong thế kỷ I thừa hưởng được bộ Kinh điển Cựu Ước
đáng tin cậy của người Do Thái, và có bộ sách Thánh Tân Ước từ thời các sứ đồ
và từ uy quyền của chính Chúa cứu thế bảo đảm...
Sách (trong Thánh Kinh) được chọn lọc và luân lưu giữa các hội thánh, được
tra xét cẩn thận. Trước giả là những người đã được Chúa lựa chọn để ghi chép, tác giả chánh là Chúa Thánh Linh, Ngài hà hơi vào các lời
ấy. Với hai nguyên tố quan trọng: Nhân tố và Thiên tố.
Nhân tố: Các sứ
đồ, môn đệ của Chúa đã ghi chép theo sự hiểu biết của họ, họ không ở trong
trạng thái ngất xỉu, tâm trí họ sáng suốt, nên văn thể vẫn giữ được sắc thái cá
nhân của trước giả. Sách đọc lên rất rõ ràng, mạch lạc, đề tài tập trung vào sự
cứu rỗi của Chúa Giê-su Ki Tô, không vẽ vời chuyện thần thoại hoang đường.
Thiên tố: Thần quyền (Chúa
Thánh Linh) hà
hơi vào trước giả, Ngài cảm thúc, kiểm soát lời viết. II Tim.
3:16: “Toàn thể Thánh Kinh đều do Thiên Chúa soi dẫn...”
Thiên
Chúa hà hơi vào mỗi từ ngữ, vì
thế người đọc Lời Chúa được Ngài tác động trong tâm linh chinh phục họ trở lại
đầu phục Ngài. Sự hà hơi của Ngài bảo đảm giá
trị Thần quyền của sách ấy vào kinh điển của Thánh Kinh...Lời ghi
chép đã được chính Chúa Thánh Linh hà hơi.
Bộ kinh điển
Cựu Ước gồm các phần chính sau đây:
Ngũ
Kinh Môi-se – Torah: 1. Sáng
Thế Ký; 2. Xuất Ai-cập Ký; 3. Lê-vi Ký; 4. Dân Số Ký; 5. Phục Truyền Luật Lệ
Ký...
Kinh điển Tân
Ước gồm có 27 sách đã được hội thánh đầu tiên tiếp nhận là thánh thư được Chúa Thánh Linh hà hơi, có giá trị thẩm quyền khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin
và phẩm hạnh của tín hữu (Christian)....
Chính
Chúa Cứu thế đã chính thức công nhận Cựu Kinh và hứa rằng công vụ của Thánh Linh của chân lý sẽ
hoàn tất mọi dữ kiện trong Tân Kinh. Lời phán của Chúa cứu thế là có giá trị
tối hậu và là chìa khóa của kinh điển Cựu và Tân ước...
Đọc
đoạn trên, chúng ta thấy rõ sự mê tín nặng nề trong những đầu óc Tin Lành và
trình độ hiểu biết rất kém cỏi về chính cuốn Thánh Kinh mà họ tôn sùng.
Thật
vậy, thứ nhất, Chúa Thánh Linh là Holy Spirit, hay là Thánh Ma (Holy Ghost), mà
một Spirit lại có thể “hà hơi” như người thường, vì Mục sư Nguyễn Hữu Ninh đã
gọi Chúa Thánh Linh là Ngài. Đúng là một chuyện tiếu lâm độc nhất vô nhị trên
thế gian, chỉ có thể có trong Ki Tô Giáo, hoặc trong bộ phim “Ghost stories”
của Tàu. Chuyện tiếu lâm này cũng tương tự như chuyện Chúa Thánh Linh có thể
làm cho bà Mary mang thai mà không cần đến tinh trùng của...đàn ông. Từ khi
khai thiên (khoảng 15 tỷ năm trước) lập địa (khoảng hơn 4 tỷ năm trước) cho đến
khi Ngài “hà hơi” (khoảng 3000 năm trước, khi Ngũ Kinh được viết) vào các trước
giả Thánh Kinh, thì chắc chắn là trong thời gian nhiều tỷ năm này chưa có những
ống kem Colgate hay Crest v..v... Vậy cái hơi của Ngài tích tụ trong nhiều tỷ
năm mà không có những sản phẩm này tất nhiên phải rất đặc biệt. Vì thế cho nên,
do cái loại hơi đặc biệt này, các trước giả mới viết lên được những lời rất khó
ngửi. Khó ngửi vì những lời đó phần lớn là những tư tưởng ác độc, bạo tàn, dâm
loạn, hoang đường, phản khoa học, phi lý trí v..v.. mà chúng ta thấy có đầy
trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước. Do đó, khi đọc Thánh Kinh, nếu chúng ta có một
bộ óc tưởng tượng phong phú, thì chúng ta có thể ngữi thấy mùi. Mùi gì? Ngoài
mùi “hà hơi” còn có mùi máu tanh trong suốt cuốn Cựu Ước, át hẳn mùi “hà hơi”
khó ngửi của Chúa Thánh Linh.
Thứ
nhì, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh viết rõ là “Ki
Tô Giáo (Christianity) trong thế kỷ I thừa hưởng được bộ Kinh điển Cựu Ước đáng
tin cậy của người Do Thái” Lẽ dĩ nhiên, vì những người Ki Tô Giáo đầu tiên là người
Do Thái. Ai cũng biết Cựu Ước là lịch sử Do Thái, viết theo niềm tin của người
Do Thái về một vị Thần của họ, giải thích những hiện tượng thiên nhiên mà trí
tuệ của họ thời đó chưa hiểu nổi. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là, người
Việt Nam chúng ta thì có liên hệ gì tới lịch sử Do Thái và Thần của họ, do đó
cái “kinh điển Cựu Ước đáng tin cậy của người Do Thái” rất có thể không đáng
giá một xu đối với người Việt Nam chúng ta, khoan nói đến chuyện tin cậy. Lịch
sử Việt Nam
đã chứng tỏ rõ ràng như vậy. Cái liên hệ duy nhất có thể có giữa người Việt Nam
và người Do Thái là do cùng một sinh thể ban khai tiến hóa trong khoảng thời
gian hàng tỷ năm mà thành, theo thuyết Tiến Hóa mà ngày nay cả thế giới, trừ
một số có đầu óc khuyết tật trong Ki Tô Giáo, nhất là Tin Lành, đều chấp nhận
là một sự kiện không ai có thể phủ bác [Xin đọc bài Charles Darwin Và Thuyết Tiến Hóa trên trang nhà Giao
Điểm]. Nền văn hóa hòa bình định cư của dân tộc Việt không có gì giống nền văn
hóa du mục bạo tàn của dân tộc Do Thái, và hơn 90% người Việt Nam theo chủ
nghĩa nhân bản và nhân chủ, vậy tại sao người Việt Nam phải tin vào những chuyện
hoang đường trong Thánh Kinh của người Do Thái và tôn thờ một vị Thần của người
Do Thái, chỉ có giá trị tâm linh đối với người Do Thái?
Thứ
ba, theo mục sư Nguyễn Hữu Ninh thì: Chúa
Thánh Linh hà hơi vào trước giả, Ngài cảm thúc, kiểm soát lời viết. Vậy mỗi khi trước giả
viết xong một câu lại phải trình lên Chúa Thánh Linh để Ngài kiểm soát? Kiểm
soát như thế nào? Cầm bút nguyên tử gạch bỏ những lời không ưng ý hay “hà hơi
lại” vào các trước giả để cho họ viết lại? Nhưng rồi Mục sư Nguyễn Hữu Ninh lại
viết: Thiên Chúa hà hơi vào mỗi từ
ngữ, vì thế người đọc Lời Chúa được Ngài tác động trong tâm linh chinh phục họ
trở lại đầu phục Ngài. Như vậy là những từ ngữ đã được viết ra, sau khi đã được
Chúa Thánh Linh kiểm soát. Vậy Ngài hà hơi vào những từ ngữ đó để làm gì nữa?
Để cho con người mỗi khi đọc đến những từ ngữ đó lại ngửi được mùi “hà hơi” của
Ngài? Mặt khác, nếu như tôi, vừa đọc vừa bịt mũi thì Ngài tính sao đây? Còn
nữa, sao tôi đọc những Lời Chúa, đọc đi đọc lại nhiều lần, mà lại chẳng thấy
Chúa Thánh Linh tác động gì hết trong tâm linh tôi để tôi trở lại đầu phục
Ngài? Trái lại tôi chỉ thấy ghê tởm Ngài như Thomas Paine đã ghê tởm Ngài qua
những chuyện độc ác, vô luân trong đó. Một bài học sơ đẳng cho Mục sư Nguyễn
Hữu Ninh: không nên viết kiểu “suy bụng ta ra bụng người” rồi “vơ đũa cả nắm”.
Thứ
tư, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh viết: “Chính
Chúa Cứu thế đã chính thức công nhận Cựu Kinh”. Như vậy thì Chúa cứu
thế, tức Giê-su, đã chính thức công nhận tất cả những chuyện hoang đường, phi
lý, phản khoa học, sai lầm, ác độc, tàn bạo, loạn luân v..v.. trong Cựu Ước.
Mục sư Ninh có dám phủ nhận là Cựu Ước không có những chuyện như trên không?
Nếu Chúa cứu thế công nhận những chuyện như vậy, và tiếp nối công vụ để hoàn
tất chúng trong Tân Ước, thì phải chăng những chuyện như trên chính là “khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin và phẩm hạnh của Ki
Tô hữu”?
Chẳng trách lịch sử Ki Tô Giáo là một lịch sử ô nhục, đẫm máu nhất thế gian,
với những giáo hoàng vô đạo đức, cuồng sát, loạn luân, với những cuộc thánh
chiến, tòa hình án xử dị giáo, săn lùng giết hại “phù thủy”, đồng hành với chủ
nghĩa thực dân v..v..., và ngày nay, chuyện một số không nhỏ linh mục, mục sư
phạm tội loạn dâm phải chăng cũng là để hoàn tất những “khuôn vàng thước ngọc cho niềm tin và phẩm hạnh của Ki
Tô hữu”?
Ai có thể phủ nhận những điều này, xin lên tiếng.
Thứ
năm, Lời phán của Chúa cứu thế là có
giá trị tối hậu và là chìa khóa của kinh điển Cựu và Tân ước... Như vậy thì những lời
phán ác độc của Chúa, những lời nguyền rủa của Chúa, những lời hỗn hào với mẹ
của Chúa, nhưng lời “tiên tri” hoang đường của Chúa, những lời nói láo của Chúa
như chúng ta sẽ thấy trong đoạn bàn về Ngũ Kinh sau đây v..v.., tất cả đều có
giá trị tối hậu? Giá trị đối với ai? Mục sư Ninh chỉ có thể lừa dối được đám
tín đồ ngu dốt, chưa hề đọc Thánh Kinh, qua những câu cường điệu bậy bạ như
trên, chứ đối với giới hiểu biết thì vô tác dụng.
Và
cuối cùng, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, cũng như Chúa Giê-su của ông ta (John 5:46;
Luke 24:27; Luke 16:31), đều tin rằng Ngũ Kinh là do Môi-se viết. Cả hai đều
sai lầm trầm trọng, vì chẳng có cái gì có thể gọi là “Ngũ Kinh – Môi-se”. Điều này chứng tỏ Chúa Giê-su cũng
chỉ là một người thường như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, sự hiểu biết rất giới hạn.
Chứng minh?
Trước
hết, tất cả các học giả nghiên cứu Thánh Kinh, ở trong cũng như ở ngoài các
giáo hội Ki Tô, đều đồng thuận ở một điểm: Ngũ Kinh (5 sách đầu trong Cựu Ước)
không phải là do Môi-se viết mà là do nhiều người khác nhau, thuộc nhiều môn
phái khác nhau, viết trong khoảng thời gian 400 năm, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6
trước thời đại thông thường ngày nay (B.C.E = Before Common Era), hay Trước Tây
Lịch (TTL) trong khi Môi-se sống trong khoảng thế kỷ 13 TTL. Các môn phái khác
nhau đó là :
- Môn phái
Yahwistic (viết tắt là J) vì gọi Chúa là Jehovah.
- Môn phái
Elohistic (viết tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim.
- Môn phái
Deuteronomic (viết tắt là D) viết sách Deuteronomy.
- Môn phái
Priestly (viết tắt là P) viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày (sau 500 TTL).
Thứ
nhì, Mục sư Rubem Alves đã đặt vấn đề trong cuốn Protestantism and Repression, trang 63:
Ai viết Ngũ
Kinh? Câu trả lời của giáo hội Ki Tô lịch sử cho câu hỏi trên là khẳng định:
"Moses viết". Nếu Moses không hề viết Ngũ Kinh (theo những kết quả
nghiên cứu của các học giả. TCN) thì
các tông đồ (Paul và John) đã sai lầm khi họ nói rằng Moses viết. Nếu họ sai
lầm trong vấn đề này thì làm sao chúng ta có thể tin họ khi họ nói về những vấn
đề như thiên đường và đời sau? Nếu Moses không
viết Ngũ Kinh thì Giê-su đã nói láo hay sai lầm khi ông ta nói rằng Moses viết.
(John
5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31). Nếu Giê-su
thực sự không biết ai viết, tuy rằng ông ta nói rằng ông ta biết, làm sao chúng
ta có thể tin ông ta được khi ông ta nói những chuyện trên trời?
(Who
wrote the Pentateuch? The response of the historical Christian Church to that
question is definite: “Moses wrote them”. If Moses did not write the
Pentateuch, then the apostles (e.g., Paul and John) made a mistake when they
said that he did. If they erred on this matter, how can we believe them when they
deal with truths concerning heaven and the future life? If Moses did not write
the Pentateuch, then Jesus lied or erred
when he said Moses did. If Jesus did not know this, though he said he did know,
how can we believe him when he talks about the thing of heaven?
Tôi
có thể tin chắc là Mục sư Nguyễn Hữu Ninh không hề biết đến những tác phẩm
nghiên cứu về Thánh Kinh Ki Tô Giáo, và chỉ viết theo những gì ông đã được dạy
chứ chính mình chưa đọc kỹ Thánh Kinh, cho nên ông ta đã dập khuôn nói láo của
Giê-su và viết là “Ngũ Kinh – Môi-se”. Nếu đọc kỹ, ông ta phải biết rằng trong
Phục Truyền Luật Lệ Ký 34: 5-7, Môi-se viết về
cái chết của chính mình như sau: “Vậy Môi-se, tôi tớ Chúa qua đời trong đất Mô-Áp, như Chúa đã phán.
Ngài (tức
là Chúa) chôn ông ta (ngôi ba đấy nhé) tại một thung lũng đối ngang...Môi-se qua đời lúc ông
ta (ngôi
ba đấy) được 120 tuổi ...”
Vậy
có phải là Môi-se viết ngũ kinh như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh rao giảng cho tín đồ
hay không? Nếu đúng là Môi-se viết thì ông không thể dùng ngôi ba “ông ta” để
chỉ chính ông. Mặt khác, Môi-se sống trong thế kỷ 13 TTL và chỉ sống có 120
tuổi, trong khi Cựu Ước chỉ được viết từ thế kỷ 9 TTL, vậy bằng cách nào mà
Môi-se viết Ngũ Kinh? Tôi đề nghị Mục sư Nguyễn Hữu Ninh hãy đọc ít nhất là
cuốn Ai Viết Thánh Kinh? (Who wrote the
Bible?, 1987) của Richard Elliott Friedman, và cuốn The Bible Unearthed: Archaelogy’s New Vision of
Ancient Israel and The Origin of its Sacred Texts của Israel
Filkelstein & Neil Asher Silberman, mới xuất bản năm 2002. Nhưng đề nghị này
có vẻ như nước đổ đầu vịt, vì tôi hiểu những người Tin Lành hơn ai hết. Đối với
họ thì tam đoạn luận sau đây là khuôn vàng thước ngọc cho mọi “lý luận”:
Tất cả những gì
trong Thánh Kinh đều đúng (Everything in the Bible is true)
Thánh kinh viết
Moses là tác giả của Ngũ Kinh (The Bible says that Moses is the author of
the Pentateuch)
Vậy thì Moses
phải là tác giả của Ngũ Kinh (Therefore Moses is the author of the
Pentateuch)
Do
đó, bài dịch này không có mục đích khai sáng Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, những tín
đồ Tin Lành (sic) tân tòng Việt Nam như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Huệ Nhật,
Khuất Minh, Phan Như Ngọc v..v.. và tất cả những “tôi tớ, tỳ nữ của Chúa” trên
Mucsu.net, và cũng không có mục đích giúp họ hiểu biết thêm về cuốn Thánh Kinh
Ki Tô Giáo. Nó chỉ có tính cách thông tin xác thực cùng đại chúng mà thôi.
Những
tín đồ thuộc loại “tôi tớ Chúa” này thường cho rằng những gì viết trong cái gọi
là Thánh Kinh Ki Tô Giáo, gồm Cựu Ước và Tân Ước, đều là những chân lý. Họ cũng
còn coi cuốn Thánh Kinh là khuôn vàng thước ngọc cho luân lý đạo đức. Điều hiển
nhiên là họ chưa bao giờ đọc kỹ Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện đọc với đầu óc
suy luận. Cũng vì vậy họ thường hay trích dẫn những câu vặt vãnh lạc lõng trong
Thánh Kinh, coi chúng như là những chân lý, để làm luận điểm đối thoại. “Lý
luận” thuộc loại “tôi tớ” của họ trong mọi cuộc đối thoại là: “Thánh Kinh viết
rằng..”, làm như tất cả những điều trong Thánh Kinh phải được chấp nhận trước
khi đối thoại, không hề biết Thánh Kinh chỉ là một sản phẩm man rợ của thời bán
khai. Lẽ dĩ nhiên, họ chưa bao biết ai là những người viết Thánh Kinh, chưa bao
giờ đọc những tác phẩm nghiên cứu về Thánh Kinh, phân tích Thánh Kinh từng câu
từng chữ, và tuyệt đối không bao giờ để ý đến tính cách nhất quán, một tính
cách không thể không có (sine qua non) trong một cuốn sách có thể gọi là có
phần nào giá trị. Tính cách nhất quán này không hề có trong Thánh Kinh. Do đó,
dù có được Thánh Linh hà hơi hay không, cuốn Thánh Kinh cũng chỉ là một sản
phẩm hạ đẳng của thời bán khai vì chứa rất nhiều điều độc ác, vô đạo đức, phi
luân lý, phản khoa học, phi lôgic, hoang đường v..v.. Chứng minh?
Chỉ
cần mở cuốn Thánh Kinh ra và đọc với một đầu óc chưa bị nhiễm độc. Nếu ngại
công tìm kiếm những điều trên, có đầy trong thánh Kinh, tôi xin giới thiệu một
số tác phẩm trong đó các tác giả đã trích dẫn sẵn những câu, những đoạn trong
Thánh Kinh mà lẽ dĩ nhiên các tín đồ Ki Tô Giáo không bao giờ được nghe giảng
trong nhà thờ:
“The
X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture” của Ben Edward
Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn
luân trong Thánh Kinh.
“All
The Obscenities in the Bible” của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500
trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân
v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child
cruelty etc..) trong Thánh Kinh.
“The
Bible Handbook”
của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith et...: Liệt kê những
mâu thuẫn (contradictions), vô ngĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v..
trong Thánh Kinh.
“The
Born Again Skeptic’s Guide to the Bible” của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận
những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.
“One
Hundred Contradictions in the Bible” của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100
điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
“The
Bible Unmasked”
của Joseph Lewis: Lột mặt nạ Thánh Kinh, đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.
“Christianity
Cross-Examined”
của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.
“Christianity
and Incest”
của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân,
những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.
Những
tín đồ Tin Lành Việt Nam như Mục sư Nguyễn Hữu Ninh, tân tòng như Lê Anh Huy,
Huỳnh Thiên Hồng, Huệ Nhật, Khuất Minh, Phan Như Ngọc v..v.. và tất cả những
“tôi tớ, tỳ nữ của Chúa” trên Mucsu.net không bao giờ biết rằng ngay từ đầu thế
kỷ 20, giới lãnh đạo Tin Lành Mỹ đã hoang mang lo sợ vì phải đối diện với hai
thực tế. Thứ nhất, “Các học giả Âu
Châu đã phân tích Thánh Kinh kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận của họ là: Thánh
Kinh không phải là cuốn sách do Thần Cha mạc khải mà viết ra, như các Ki Tô hữu
đã tin, do đó không thể sai lầm. Thật ra, đó là, một hợp tuyển lộn xộn những
huyền thoại cổ xưa, truyền thuyết, lịch sử, luật lệ, triết lý, bài giảng đạo,
thi ca, chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất hiển nhiên.” (European scholars
were scrutinizing the Bible more closely than ever before. They had concluded
that it (the Bible) was not, as Christians had long believed, a book dictated
by God and therefore infallibly true. It was, instead, a disorderly anthology
of ancient myths, legends, history, law, philosophy, sermons, poems, fiction,
and some outright forgeries.). Thứ nhì, chính là những tư tưởng trong thuyết
Tiến Hóa của Charles Darwin. [Xin đọc bài Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa trên trang nhà Giao Điểm]
Cho
nên ngày nay, những ai còn nói chuyện mạc khải, hà hơi, hay thẩm quyền của
Thánh Kinh, thật ra chỉ là những người còn sống trong bóng tối, lạc hậu ít ra
là vài thế kỷ. Bởi vì, thực tế là, Thánh Linh có hà hơi hay không, trong Thánh
Kinh (sic) loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết người vẫn là
giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa học v..v...
Để
thay cho đoạn kết của chương này, tôi xin dịch bài "Những Lời Châu Ngọc về Thánh Kinh" (Gems Concerning the
Holy Bible) của Robert G. Ingersoll trong cuốn "Ingersoll: Con Người Kỳ Diệu" (Ingersoll, the
Magnificient), biên tập bởi Joseph Lewis, trg. 59-85. Qua bài này, chúng ta sẽ
thấy thực chất cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo là như thế nào, và hi vọng Mục sư
Nguyễn Hữu Ninh sẽ nhận thức được “chân giá trị” của một cuốn sách mà ông tin
là Thiên Chúa của ông đã “hà hơi vào từng câu, từng chữ”. Xin quý độc giả ghi nhận, tất cả những gì Ingersoll viết
đều dựa trên nội dung Thánh Kinh và lịch sử Ki Tô Giáo. Cũng như
những bài tôi đã dịch về các chủ đề liên hệ đến Ki Tô Giáo, để tránh bài dịch
quá dài, tôi đã lược bớt một số đoạn thuộc triết lý cá nhân của Ingersoll mà
tôi cho là đã đi xa đầu đề của bài viết, tuy trong những đoạn này có những tư
tưởng rất hay của Ingersoll về nhân chủ và nhân bản. Xin mời quý độc giả thưởng
thức một bài viết ở cuối thế kỷ 19 của một danh nhân Hoa Kỳ: Đại Tá Robert G.
Ingersoll, một chính trị gia, một diễn giả, một nhà hùng biện, và nhất là, một
nhà tư tưởng tự do (Freethinker) lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Ông có tên
trong lịch sử Hoa Kỳ, trong Tự Điển, trong Bách Khoa Tự Điển, trong Tự Điển
điện tử (CD-ROM, Grolier Electronic Publishing, 1997) và những tác phẩm của ông
có trong mọi thư viện ở Hoa Kỳ.
"Một người
nào đó phải nói lên sự thực về cuốn Thánh Kinh. Những nhà giảng đạo [trong nước
Mỹ. TCN] không dám vì họ sẽ bị đuổi khỏi các bục giảng. Những giáo sư đại học
không dám, vì họ sẽ mất đi đồng lương. Các chính trị gia không dám. Họ sẽ bị
đánh bại. Các chủ biên không dám. Họ sẽ mất độc giả. Các thương gia không dám,
vì họ có thể mất khách hàng. Ngay cả những công chức thường cũng không dám, vì
họ có thể bị đuổi. Vậy thì tôi nghĩ chính tôi sẽ phải làm việc này. [Xin nhắc lại,
Ingersoll viết bài này vào cuối thế kỷ 19]
Có nhiều triệu
người tin rằng Thánh Kinh là lời mặc khải của Thiên Chúa - nhiều triệu người
nghĩ rằng cuốn sách này là cây gậy dẫn đường, là nguồn cố vấn và an ủi; rằng nó
chứa đầy hòa bình trong hiện tại, hi vọng trong tương lai - nhiều triệu người
tin rằng đó là suối nguồn của luật pháp, công lý và tình thương, và nhờ có
những giáo lý thông thái và lành tốt mà thế giới có được tự do, thịnh vượng, và
văn minh - nhiều triệu người tưởng tượng rằng cuốn sách này là sự mặc khải từ
trí tuệ và lòng thương yêu của Thiên Chúa đến với tâm thức con người - nhiều
triệu người coi cuốn sách này như là ngọn đuốc chinh phục được sự tối tăm của
chết chóc, và tỏa ánh sáng trên một thế giới khác - một thế giới không có nước
mắt.
Họ quên đi cái
sự ngu tối và man rợ, sự thù ghét tự do, sự tàn sát tôn giáo ở trong Thánh
Kinh; họ nhớ tới Thiên đường, nhưng quên đi những ngục tù tăm tối và sự đau khổ
vĩnh viễn ở dưới hỏa ngục.
Họ quên rằng
cuốn sách này giam hãm đầu óc con người và làm cho lòng người đồi bại. Họ quên
rằng cuốn sách này là kẻ thù của tự do trí thức.
Các linh mục,
mục sư phân vân là làm sao tôi lại có thể tồi tệ đến độ công kích cuốn Thánh
kinh.
Tôi sẽ nói cho
họ biết:
Cuốn sách này,
cuốn Thánh Kinh, đã truy tố cho đến chết những người thông thái nhất và tốt
nhất. Cuốn sách này đã chặn đứng sự tiến bộ của loài người. Cuốn sách này đã
đầu độc những nguồn kiến thức và lạc dẫn năng lực của con người.
Cuốn sách này
là kẻ thù của tự do, là cột chống của chế độ nô lệ. Cuốn sách này đã gieo những
hạt giống thù hận trong gia đình và quốc gia, nhúm ngọn lửa chiến tranh, và làm
cho thế giới nghèo khổ. Cuốn sách này là công sự của hôn quân bạo chúa - là chủ
nhân của các nô lệ phụ nữ và trẻ em. Cuốn sách này đã làm đồi bại nghị viện và
triều chính. Cuốn sách này đã biến các trường đại học [Ki Tô Giáo] thành thầy dạy của sự sai trái và kẻ thù ghét khoa
học. Cuốn sách này chất đầy những nước theo KiTô giáo với những tông phái thù
hận, độc ác, ngu tối, chém giết lẫn nhau. Cuốn sách này dạy con người giết đồng
loại vì tôn giáo. Cuốn sách này đã lập nên Tòa Hình Án xử dị giáo, phát minh ra
những hình cụ tra tấn, thiết lập những ngục tù tối tăm trong đó người lương
thiện và nhân từ mai một dần; rèn những chuỗi xích trở thành rỉ xét trong da
thịt họ, dựng lên những đoạn đầu đài để chặt đầu họ. Cuốn sách này đã xếp những
đống củi dưới chân của người lành. Cuốn sách này đã trục lý trí ra khỏi đầu óc
của nhiều triệu người và đưa những kẻ khùng vào đầy nhà thương điên.
Cuốn sách này
đã gây nên cảnh cha mẹ làm đổ máu những trẻ sơ sinh. Cuốn sách này đã là trường
bán đấu giá trên đó người mẹ nô lệ đứng nhìn đứa con nhỏ phải bị chia lìa khi
bà được bán đi. Cuốn sách này chứa đầy thuyền kẻ buôn nô lệ và làm da thịt con
người thành món hàng hóa. Cuốn sách này đã nhúm lửa thiêu sống những "mụ
phù thủy" và những "thầy pháp”. Cuốn sách này chứa đầy tối tăm với
những quỷ và ma [Satan và Holy Ghost], và thân thể con người với những ác quỷ [demons]. Cuốn sách này đã làm ô nhiễm đầu óc con người với
giáo điều ô nhục về hình phạt đầy đọa vĩnh viễn [của Giê-su]. Cuốn sách này coi
sự cả tin như là đức tính cao nhất, và sự tìm tòi hiểu biết như là tội ác lớn
nhất. Cuốn sách này đã đặt kẻ ngu dốt và những vị Thánh nhơ bẩn lên trên triết
gia và người nhân đức. Cuốn sách này dạy con người coi thường những niềm vui
của đời sống này, để có thể sung sướng ở đời sau - bỏ phí thế giới này vì thế
giới sau.
Tôi công kích
cuốn sách này vì nó là kẻ thù của sự tự do của con người - là sự cản trở lớn
nhất của sự tiến bộ của con người.
Tôi xin hỏi các
linh mục, mục sư một câu: làm sao mà các ông có thể tồi tệ đến mức bào chữa cho
cuốn sách này.
Cuốn Thánh Kinh
đã là thành trì chống đỡ của hầu hết các tội ác.
Ngang qua cuốn
Thánh kinh mở là thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người).
Chúng ta hãy
thoát ra khỏi sự tàn bạo của một cuốn sách, ra khỏi sự nô lệ của sự ngu tối
cùng cực, của cái không khí quý tộc thống trị [của các giáo sĩ].
Một trong những
việc đầu tiên mà tôi (Ingersoll) muốn làm là giải phóng giới giáo sĩ. Tôi là
bạn tốt của họ, và mặc dù tất cả những gì họ có thể nói về tôi, tôi sẽ giúp họ
một đại sự lâu dài. Trên cổ họ là những vết hằn của cái cổ áo linh mục, và sau
lưng họ là những vết roi. Họ không được phép đọc và tự mình suy nghĩ. Họ được
dạy như những con vẹt, và những người giỏi nhất là những người có thể nhắc lại
đúng những câu mà họ được dạy. Họ ngồi như những con cú vọ [Người Việt Nam dùng danh
từ “quạ đen” (corbeau noir)] trên một cành cây khô của cái cây hiểu biết và
phát ra những tiếng cú kêu giống y như những tiếng cú kêu đã kêu trong 1800 năm
nay. (They sit like owls upon some dead limb of the tree of knowledge, and hoot
the same old hoots that have been hooted for eighteen hundred years).
Có một ông bác
sĩ giải phẫu đến thăm một người tàn tật đáng thương và đề nghị giúp anh ta
trong khả năng của ông ta. Ông bác sĩ bắt đầu phân tích về bản chất và nguồn
gốc chứng tật của người kia, về những loại thuốc có thể giúp anh ta, về sự lợi
ích của tập luyện, của không khí trong lành và ánh sáng, và nhiều điều khác có
thể giúp chữa lành được chứng tật của người kia. Tất cả những hành động này đều
do thiện ý của một bác sĩ có những kiến thức chính xác. Nhưng người kia hoảng
sợ và kêu lên, “Tôi xin ông, đừng lấy đi cặp nạng của tôi. Đó là cái tôi phải
tựa vào, nếu không thì tôi sẽ khốn khổ.” Ông bác sĩ giải phẫu nói: “Tôi không
có lấy đi cặp nạng của anh, tôi sẽ chữa lành cho anh, và rồi tự anh sẽ vứt bỏ
cái cặp nạng ấy đi.”
[Đây chính là chủ trương của Ingersoll đối với giới giáo sĩ Ki Tô Giáo vào cuối
thế kỷ 19, và ngày nay, TCN cũng chỉ đi theo con đường này để giúp các đồng bào
xấu số vứt đi những cặp nạng không cần thiết của họ].
Lấy cái gì để
thay thế cho một sự trừng phạt vĩnh viễn? Chỉ cần chứng tỏ là sự trừng phạt đó
không hề có. Một người có bệnh tật muốn gì? Sức khỏe.
Bất kể sự kiện
là những người ngoại đạo trong mọi thời đại đã chiến đấu cho nhân quyền, và đã
là những người ủng hộ tự do và công lý, nhưng chúng tôi thường xuyên bị giáo
hội Ki Tô cáo buộc là chỉ biết phá đổ mà không biết xây dựng.
Tôi không chống
con người. Tôi chống những giáo lý mà tôi cho là sai lầm. Không cần thiết phải
chống con người – chúng ta hãy chống sự sai lầm.. Chúng ta hãy làm hết sức để
cung cấp sự hiểu biết, giáo dục, vì sự lợi ích của đồng bào chúng ta.
Những người tin
vào Thánh Kinh ồn ào tố cáo những cái mà họ gọi là văn phẩm phi luân của thế
giới. Nhưng thật ra thì ít có cuốn sách nào đã được xuất bản mà chứa những sự
dơ dáy về luân lý đạo đức nhiều hơn là những lời mạc khải của Thiên Chúa. Những
chuyện trong Thánh Kinh không loé lên một điểm thông minh dí dỏm nào. Chúng
không bao giờ lên quá được mức buồn tẻ về những chi tiết của những thói xấu ngu
đần. Tôi là người không muốn làm nhơ những trang giấy của tôi với những câu
trích dẫn từ Thánh Kinh. (I cannot afford to soil my pages with extracts from
them); và tất cả những đoạn đó trong Thánh Kinh, tôi để cho giới giáo sĩ xem
xét, bình luận và giải thích. Các ông giáo sĩ đó có thể kiếm ra cách nào đó để
lấy mật ong ra từ những bông hoa đó.
Cuốn Thánh Kinh
không phải là cuốn sách để cho già cũng như trẻ đáng đọc. Nó chứa những trang
sách mà không một ông mục sư nào ở Mỹ dám đọc trước cộng đồng dân Chúa bất kể
là phần thưởng dành cho ông ta là cái gì. Có những chương mà không một người
cha nào muốn đọc cho con nghe. Có những câu chuyện không thể kể; và sẽ có ngày
cả nhân loại sẽ phân vân là sao mà một cuốn sách như vậy lại có thể gọi là được
Thiên Chúa mạc khải.
Chúng ta thường
xuyên được bảo rằng Thánh Kinh là nền tảng của sự khiêm tốn và đạo đức; trong
khi thật ra thì những trang sách trong đó chẳng có gì là khiêm tốn và đạo đức
[Xin dọc những lời tự nhận rất huênh hoang và những lời vô đạo đức của Giê-su
trong Tân Ước. TCN], mà nếu một mục sư đọc chúng trên bục giảng thì ngay lập
tức ông ta sẽ bị tố cáo là đồ khốn nạn dơ dáy (unclean wretch). Mọi phụ nữ sẽ bước ngay ra khỏi nhà thờ, và nếu nam
giới có ở lại thì chỉ với mục đích là nghiêm khắc trừng phạt ông mục sư đó (chastising that
minister).
Có phải tốt hơn
là hãy chấp nhận Thánh Kinh được viết bởi những người man rợ trong một thời đại
man rợ, thô thiển không? Có phải đúng hơn là có những tên Do Thái ngu đần nào
đó đã viết lên những lời tầm thường đó. Những Ki Tô hữu bảo tôi rằng chính
Thiên Chúa là tác giả của những điều đê tiện và ngu xuẩn (vile and stupid)
này. [Và ngày nay, Mục sư Nguyễn Hữu Ninh vẫn dạy các tín đồ Tin Lành rằng
Thiên Chúa là tác giả của những điều đê tiện và ngu xuẩn này. TCN]
Sự kiện là,
những điều hay trong một cuốn sách không chứng minh được là cuốn sách đó đã
được Thiên Chúa mạc khải (hay “hà hơi” theo mục sư Nguyễn Hữu Ninh), nhưng
những điều xấu xa và sai lầm trong đó đích thực đã chứng minh rằng đó không
phải là một cuốn sách đã được mạc khải.
Vấn đề thực sự
không phải là cuốn Thánh Kinh có được mạc khải hay không, mà là nó có đúng hay
không. Nếu nó đúng, nó không cần phải được mạc khải. Nếu nó đúng thì không có
gì khác biệt là nó đã được viết bởi một người hay một ông thần; và nếu nó không
đúng thì không thể bảo nó là do sự mạc khải của thần mà viết lên. Một bản cửu
chương (multiplication table) thì cũng có ích, cũng đúng như là một thần đã xếp
đặt những con số trong đó. Nếu Thánh Kinh thực sự đúng, không cần phải đề cao
nó là do sự mạc khải của thần.
Thật ra thì,
chân lý không cần phải được mạc khải. Không có gì phải cần đến sự mạc khải trừ
sự giả mạo hay sai lầm [nghĩa là muốn sự giả mạo trở thành chân thật, sự sai lầm
trở thành đúng bằng cách khoác cho nó bộ áo “do Thiên Chúa mạc khải”. TCN]. Ở đâu mà sự thật chấm dứt, ở đâu mà xác suất (probability) ngưng lại, thì ở đó sự mạc khải (hay “hà hơi”) bắt đầu. Một sự kiện không bao giờ đi cùng với một
phép lạ. Chân lý không bao giờ cần đến sự trợ giúp của phép lạ.
Sự mạc khải của
cuốn Thánh Kinh tùy thuộc sự cả tin của người đọc. Đã có một thời, những điều
viết trong đó về địa chất, về thiên văn, lịch sử thiên nhiên, đều được cho là
do sự mạc khải của thần và do đó không thể sai lầm; thời đại đó đã qua. Đã có
một thời, những quan niệm về luân lý đạo đức trong đó đã làm hài lòng những con
người nắm quyền thống trị tư tưởng của nhân loại; thời đại đó đã qua.
Có một người
thông minh nào trên thế giới ngày nay còn có thể tin được câu chuyện vườn Eden? Nếu bạn thấy người
nào còn tin như vậy, hãy gõ lên trán anh ta, bạn sẽ nghe thấy một tiếng vang [vì đầu óc hắn ta
rỗng tuếch. TCN]. Có một người thông
minh nào mà ngày nay còn có thể tin là Thiên Chúa đã tạo ra người đàn ông từ
đất sét, và người đàn bà từ một cái xương sườn, rồi đặt hai người vào trong một
cái vườn, và đặt một cái cây ở giữa vườn? Không có chỗ nào ngoài cái vườn để
đặt cái cây đó hay sao, nếu ông ta không muốn cho họ ăn trái cây trên cây đó?
Có còn người nào ngày nay còn có thể tin vào chuyện con rắn (xúi Adam và Eve ăn
trái cấm)? Tôi thật thương hại bất cứ
ai, trong thế kỷ 19 này, còn tin vào những chuyện trẻ con như vậy.
Tại sao Adam và
Eve bất tuân điều cấm của Thiên Chúa? Tại sao họ bị cám dỗ? Bởi ai? Bởi quỷ (hiện thân thành con
rắn). Ai tạo ra quỷ? Thiên Chúa. Ông
ta tạo ra quỷ để làm gì? Tại sao ông ta không nói cho Adam và Eve biết về con
rắn? Tại sao ông ta không canh chừng con quỷ mà lại đi canh chừng Adam và Eve?
Tại sao ông ta không gây ra nạn hồng thủy trước, và dìm chết con quỷ, trước khi
ông ta tạo ra Adam và Eve?
Vậy mà, những
người tự cho là mình thông minh – giáo sư đại học và viện trưởng các học viện [Ki Tô] danh tiếng – đã dạy trẻ con và lớp trẻ rằng chuyện
vườn Eden là
một sự kiện lịch sử tuyệt đối. Cái ông Thiên Chúa này của họ, đứng chờ xung
quanh cái vườn Eden – biết rằng cái gì sẽ xảy ra – đã tạo nên Adam và Eve với
mục đích duy nhất là điều xảy ra sẽ phải xảy ra, rồi sao nữa? Bắt tất cả chúng
ta phải chịu trách nhiệm, và chúng ta không hề có mặt ở đó. Adam và Eve là đại
diện của những người chưa được sinh ra. Trước khi tôi bị ràng buộc vào một đại
diện, tôi muốn có cơ hội để bỏ phiếu chọn anh ta hay không? Và nếu tôi ở đó (vườn Eden), và biết mọi trường hợp đã xảy ra, tôi đã bỏ phiếu
“không chấp nhận”. Tuy vậy, trách nhiệm vẫn về phần tôi.
Chúng ta được
Thánh Kinh và Giáo hội dạy, vì sự “sa ngã” này của Adam và Eve, “tội lỗi và cái
chết đã đi vào nhân loại”. Theo như vậy thì, ngay sau khi Adam và Eve ăn trái
cấm, Thiên Chúa bắt đầu bày đặt ra những phương pháp để tiêu diệt sự sống của
các con cái của ông ta. Ông ta đã “sáng tạo” ra mọi bệnh tật – nóng sốt, ho
hắng và cảm cúm – tất cả những sự đau đớn cho thể xác và sự truyền nhiễm của
bệnh dịch hạch, bệnh sốt rét và những vi khuẩn, để cho khi thở chúng ta hít vào
những tên sát nhân mà chúng ta không thể nhìn thấy; và, sợ rằng có người sống
thọ, Thiên Chúa phát minh ra động đất và núi lửa, bão tố và sấm sét; và các vi
sinh vật tràn ngập vào tim óc, quá nhỏ đến nỗi mắt không nhìn thấy được.. Tất
cả chỉ vì Adam và Eve không nghe lời ông ta.
Với lòng tốt vô
tận (infinite
goodness), Thiên Chúa phát minh ra
bệnh nhức xương và đau khớp xương, chứng khó tiêu (dyspepsia), ung thư và chứng đau thần kinh, và vẫn còn tiếp tục
phát minh ra những chứng bệnh mới. Như vậy cũng chưa đủ, ông ta còn làm cho các
bà mẹ phải đau đớn (khi
sinh đẻ), và qua lòng thương yêu của
ông ta, sự chết sẽ đến với mọi người. Ông ta nguyền rủa cả thế giớ. (He cursed the
world). Nhưng tất cả những cái này chỉ
là bước mở đầu cho sự trả thù của một ông Thiên Chúa chí thiện (Good God). Quý vị có thể nói đến một cách không rõ ràng, nhưng
không bao giờ có thể quan niệm nổi những sự khủng khiếp vô cùng tận của cái
giáo lý gọi là “Sự sa ngã của con người”. (the infinite horrors of the doctrine
called “The fall of man”).
Theo Thánh Kinh
thì Thiên Chúa đã chọn lựa dân tộc Do Thái để loan báo một sự kiện vĩ đại: rằng
ông ta là ông Thần duy nhất trên thế gian. Để đạt được mục đích này, ông ta
hiện ra nhiều lần trước mặt Môi-se (Moses) – từ trên mây xuống núi Sinai, trong
bụi cây bốc lửa, và làm hàng ngàn phép lạ để giáo dục và giữ dân Do Thái. Ông
ta rẽ nước biển ngay trước mắt họ. Ông ta làm cho bánh rơi từ trên trời xuống
để nuôi họ. Ông ta làm cho nước phọt ra từ tảng đá để cho họ uống cho đỡ khát.
Những kẻ thù của ông ta đều bị tiêu diệt một cách rất lạ lùng; và trong 40 năm,
cái ông Thiên Chúa này đích thân cai trị dân Do Thái. Tuy nhiên, sau tất cả
những phép lạ này, một số người trong dân của ông ta lại vẫn cứ tin vào các
Thần Cây, Thần Đá hơn là tin vào ông ta.
Cái ông Thiên
Chúa này, với tất cả quyền năng và sự sáng suốt, lại không thể thuyết phục được
một số dân du mục man rợ rằng ông ta thì mạnh hơn là các hình tượng của dân Ai
Cập. Ông Thiên Chúa này không muốn cho dân Do Thái của ông ta có đầu óc suy tư
và óc tìm hiểu. Đối với những người có đầu óc, sự trừng phạt là tử hình. Ở đâu
mà ông Thiên Chúa này trị vì, sự tự do trí thức không được biết đến. Ông ta chỉ
trông cậy vào bạo lực; đòi hỏi sự thờ phụng ông ta bằng gươm giáo và ngọn lửa
thiêu đốt; ông ta xử sự như một điệp viên (spy), một phán quan của tòa án xử dị
giáo (inquisitor), một quan tòa (judge), và một đao phủ (executioner).
Khi tôi đọc
lịch sử của dân tộc Do Thái, từ nô lệ đến chết chóc, với những bạo chúa v..v..,
tôi phải thú nhận là tôi thật thương xót họ. Họ bị gian lận, lừa dối và đối đãi
rất tệ hại. Cái ông Thiên Chúa của họ rất dễ nổi nóng, vô lý, tàn ác, hận thù
và bất lương. (Their God was quick-tempered, unreasonable, cruel, revengeful
and dishonest). Ông ta luôn luôn hứa hẹn nhưng không bao giờ giữ lời. Ông ta
phí thì giờ về những chi tiết nhỏ nhặt, trẻ con, và phóng đại những việc ông ta
làm. Tôi không thể quan niệm được một cá tính nào đáng ghét hơn là cá tính của
cái ông Thiên Chúa của người Do Thái. Ông ta long trọng hứa với dân Do Thái là
mang họ ra khỏi Ai Cập đến một nơi tràn đầy sữa và mật ong.
Ông ta làm cho
họ tin tưởng rằng trong tương lai gần, mọi khổ nạn của họ sẽ qua đi, và họ sẽ
trở về vùng đất Canaan với vợ con, quên đi những sự cực khổ ở Ai Cập. Sau khi
hứa hẹn đi, hứa hẹn lại (again and again) với đám dân du mục Do Thái khốn khổ
là ông ta sẽ dẫn họ đến vùng đất hứa tràn đầy thực phẩm và vui sướng, cái ông
Thiên Chúa này, quên hết mọi điều hứa hẹn của mình, và nói với đám dân khốn khổ
đang ở dưới quyền ông ta: “Súc vật của các ngươi sẽ cùng các ngươi đi vào vùng
sa mạc hoang dại và con cái các ngươi sẽ lang thang cho đến khi súc vật của các
ngươi chết hết”. Lời nguyền rủa trên là kết luận của mọi vấn đề. Trong vùng sa
mạc của thần chết và tối tăm, tất cả những lời hứa hẹn của Thiên Chúa đều phai
nhạt. Trong sự cực khổ và thất vọng của đám dân du mục, tất cả những hi vọng về
tự do và định cư đều biến mất [cho đến năm 1947. TCN]. Hàng triệu dân Chúa bỏ
thây trong sa mạc, và mỗi xác chết là một nhân chứng của sự bất lương của Thiên
Chúa (each corpse certified to the dishonesty of God). Những điều quá độc ác và
vô tâm như vậy thật đã ra ngoài mọi ý niệm về công lý của tôi. [Theo ông Đỗ Mạnh Tri
trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng thì tất cả những khổ nạn của dân Do Thái đều
nằm trong chương trình giáo dục của Thiên Chúa. TCN]
Khi chúng ta
nghĩ tới những người Do Thái khốn nạn, sợ hãi, giết nhau, bị giết chóc, rắn
cắn, bệnh truyền nhiễm, lừa dối, lột hết của cải...chúng ta phải cám ơn trời
đất là chúng ta đã không phải là dân tộc được Thiên Chúa chọn lựa (how thankful
we should be that we are not the chosen people of God) [Việt Nam ta, trừ một
số mất gốc, nhờ hồng phúc tổ tiên, cho nên không rơi vào số phận của những kẻ
nô lệ tin tưởng và thờ phụng Thiên Chúa, một vị Thần độc ác ngoài sức tưởng
tượng của con người tiến bộ ngày nay. TCN]. So sánh với Thiên Chúa (Jehovah), Pharaoh (vua Ai Cập) là kẻ nhân từ,
và cách hành xử độc đoán của Ai Cập là sự giải thoát cho những người phải chịu
đựng ý tưởng về tự do của Thiên Chúa.
Đọc Ngũ Kinh,
tôi cảm thấy vô cùng phẫn nộ, ghê sợ và đầy sự thương hại. Không có gì đáng
buồn thảm hơn là lịch sử của một dân tộc du mục thiếu ăn, lang thang trong sa
mạc, làm mồi cho đói khát, bệnh tật. Cực kỳ ngu đần và mê tín, bị thống trị bởi
sự lừa dối, đạo đức giả, họ là trò chơi của giới giáo sĩ. Thiên Chúa là kẻ thù
lớn nhất của họ, và họ chỉ có một người bạn, đó là cái chết. Chúng ta không thể
nào quan niệm nổi một sinh vật nào quá chừng đê tiện, đáng ghét, và kiêu căng
hơn là vị Thần của người Do Thái. (It is impossible to conceive a more
thoroughly despicable, hateful, and arrogant being, than the Jewish God) [Thảm
thay, đây cũng lại là chính vị Thần mà những người Ki Tô Giáo Việt Nam, Ca Tô
cũng như Tin Lành, gọi là Thiên Chúa và thờ phụng. TCN] Trong những huyền thoại
của dân gian, không có Thần nào như hắn ta. Chỉ có hắn là chưa từng bị đau khổ
cùng cực về thể xác cũng như tinh thần, chưa từng chảy nước mắt. Hắn chỉ thích
thú với máu đổ và sự đau đớn của con người. Tình cảm con người không nghĩa lý
gì đối với hắn. Hắn ta không biết gì là tình yêu thương, ca nhạc, hạnh phúc. Là
một người bạn giả dối, một quan tòa bất công, một kẻ khoác lác (a braggart), đạo đức giả, độc đoán, hận thù, ghen tuông, ưa trả
thù, hứa hão, ưa nguyền rủa, ngu đần, đồng bóng, đồi bại và ghê tởm (infamous and
hideous) – đó là Thiên Chúa trong Ngũ
Kinh. [Chúng
ta không nên lấy làm lạ khi thấy trong Tân Ước, Thiên Chúa Con, alias Giê-su,
cũng có không ít cùng những đặc tính được mô tả ở trên. Cũng giả dối, khoác
lác, đạo đức giả, độc đoán, ác độc, hận thù, ưa trả thù, hứa hão, ưa nguyền
rủa, ngu đần v..v.. Việc chứng minh rất dễ dàng. Chỉ cần mở cuốn Tân Ước ra là
thấy ngay. Tôi sẽ trình bày chi tiết dẫn chứng từ Tân Ước trong một bài khác.
TCN]
Trong nhiều
năm, (trong
thế giới Ki Tô) người ta đã cho rằng
10 điều răn trong Cựu Ước là nền tảng của mọi ý tưởng về công lý và luật pháp.
Nhiều nhà luật học nổi danh đã phải cúi đầu trước thành kiến phổ thông, và đã
méo mó nghề nghiệp đến độ cho rằng luật của Môi-se là suối nguồn của mọi ý
tưởng về công chính. Không có gì sai lầm một cách ngu đần hơn. Hàng ngàn năm
trước khi Môi-se sinh ra đời, dân Ai Cập đã có một bộ luật. Họ đã có những luật
chống phỉ báng, giết người, ngoại tình, ăn trộm, ăn cướp, luật đòi nợ, tôn
trọng hợp đồng, bồi thường, chuộc đồ, và hầu như về mọi khía cạnh của đời sống
xã hội.
Họ thường bảo
với tôi rằng, nếu không có cuốn Thánh Kinh thì không làm gì có nền văn minh
nào. Người Do Thái có một Thánh Kinh. Người La Mã không có. Nhưng dân nào có
một chính quyền tốt hơn? Chúng ta hãy lương thiện. La Mã không có Thánh Kinh,
Thiên Chúa không quan tâm đến đế quốc La Mã. Ông ta không có thì giờ. Tất cả
thì giờ ông ta để cho người Do Thái. Nhưng La Mã đã chinh phục thế giới, kể cả
dân Thần lựa chọn. Dân tộc có Thánh Kinh bị dân tộc không có Thánh Kinh đánh
bại. [Điều
này cũng đúng trong thời hiện đại. Mỹ và Pháp đều có Thánh Kinh, Việt Nam không có
Thánh Kinh, nhưng đã đánh bại cả hai].
Và chúng ta có thể nói gì về Hi Lạp? Không Thánh Kinh. Hãy so sánh Athens với Jerusalem.
Athens là trung
tâm nghệ thuật và trí thức của thế giới. [Có lẽ tác giả chỉ biết đến lịch sử
Trung Đông và Tây Phương]. Hãy so sánh
những huyền thoại của Hi Lạp với những huyền thoại của Do Thái. Huyền thoại Hi
Lạp đẹp đẽ biết bao, còn huyền thoại Do Thái thì đầy những hận thù và bất công.
Do Thái đã trở
thành thế nào vì có Thánh Kinh? Đền thờ Thần của họ bị phá hủy, thành thị bị
chiếm cứ; và họ chưa bao giờ trở nên thịnh vượng cho đến khi họ bị Thần bỏ rơi.
Nền tảng văn
minh của chúng ta đã khởi đầu từ nhiều thế kỷ trước khi Ki Tô Giáo xuất hiện.
Tất cả những gì đóng góp cho nền văn minh: sự tiến bộ trí thức, lòng can đảm,
tổ chức chính phủ, kỹ nghệ v..v.. không đến từ Ki Tô Giáo mà là do sự đóng góp
của mọi quốc gia trên thế giới từ xưa.
Có nhiều người
cho rằng chính phủ của chúng ta là một chính phủ Ki Tô, đặt nền tảng trên Thánh
Kinh, và người nào coi Thánh Kinh như là sai lầm và điên rồ (false and foolish)
là phá hủy nền tảng của đất nước. Sự thực là, chính phủ của chúng ta không đặt
nền tảng trên quyền của Thiên Chúa mà là trên quyền của con người. Hiến pháp
của chúng ta được đóng khung trên sự thiêng liêng của nhân loại chứ không tuyên
bố và không ủng hộ tư cách thần thánh của Giê-su. Chính phủ của chúng ta là
chính phủ đầu tiên do dân và vì dân. Đây là quốc gia duy nhất mà Thiên Chúa
không có quyền gì trong đó. Tuy vậy mà cũng còn có một số người bất lương và
hèn nhát đến độ (dishonest and cowardly enough) long trọng quyết định đây là
một quốc gia Ki Tô, và định chế tự do của chúng ta được đặt căn bản trên những
luật ô nhục của Thần Gia-vê (infamous laws of Jehovah).
Và ở đây, tôi
xin nói dứt khoát, khi tôi nói đến Thiên Chúa có nghĩa là tôi muốn nói đến Thần
mà Moses mô tả trong Thánh kinh, Thần Gia-vê của người Do Thái. Tôi muốn nói
đến Thiên Chúa đã ngăn chận sự tiến bộ của con người; đã tăng gấp bội sự cực kỳ
đau đớn về tinh thần cũng như thể xác của phái nữ; và trong cơn giận đã nhận
chìm cả thế giới – Thiên Chúa mà trên bàn thờ hắn có đầy máu, Thiên Chúa đã
phanh thây những trẻ sơ sinh, cưỡng hiếp gái trinh, nô lệ hóa con người và chất
đầy thế giới với những tội ác và sự ác độc; Thiên Chúa đã lập lên thiên đường
cho một số nhỏ và hỏa ngục cho tuyệt đại đa số nhân loại..
Sự thật là,
Môi-se (Moses) coi bầu trời như là một vòm cứng, nơi Thiên Chúa trú ngụ, và
nước được giữ ở trên đó. Đó là tại sao họ thường ngẩng mặt cầu nguyện cho trời
mưa. Họ cho rằng có vài thiên thần nào ở trên đó mở ra những cánh cửa để cho
lượng nước mà họ mong muốn rơi xuống.
Họ không có
cách nào để biết thế nào là mưa. Nước từ đâu mà rơi xuống? Họ không biết gì về
sự bốc hơi của nước. Họ không hề tưởng tượng ra được rằng, ánh sáng mặt trời đã
âu yếm hôn (amorous kisses) những làn sóng biển, từ đó hơi nước bốc lên để gặp
người yêu ở trên không, nhưng rồi thất vọng nên đã biến thành nước mắt rơi
xuống thành mưa.
Tôi có thể bị
đọa đầy xuống hỏa ngục, nhưng tôi không bao giờ tin là cây cỏ hoa lá trên trái
đất lại có trước mặt trời [như đã được mạc khải trong Thánh Kinh] với những tia
nắng lung linh, xua đi bóng tối của đêm trường.
Ngày nay, người
ta thường cho rằng, trong khi Cựu Ước có nội dung man rợ của thời đại đó, Tân
Ước thì hoàn toàn đạo đức, không có một tì vết nào trên những trang Tân Ước.
Thật ra, Tân Ước còn ủng hộ chế độ nô lệ hơn là Cựu Ước. Về phần tôi, tôi sẽ
không bao giờ, không bao giờ có thể (I never will, I never can) thờ phụng một
Thiên Chúa chấp thuận chế độ nô lệ. Một Thiên Chúa như vậy, tôi thật là ghét và
không thèm đếm xỉa gì đến ông ta. Tôi chẳng muốn cái thiên đường của ông ta,
cũng như chẳng sợ cái hỏa ngục của ông ta.
Chúng ta được
bảo rằng, trong Ngũ Kinh, Thiên Chúa, vị Cha chung của chúng ta, đã trao hàng
ngàn thiếu nữ còn trinh, sau khi đã giết cha mẹ anh em họ, để cho những con
người man rợ thỏa mãn lòng dục của họ [Ingersoll quên rằng chính Thiên Chúa
cũng có phần].
Đó là sự “tự do
tôn giáo” (religious freedom) của Thiên Chúa; lòng khoan nhượng của Thần Gia-vê
(Jehovah). Nếu tôi sống ở Palestine vào thời đại đó, và vợ tôi, mẹ của những
con tôi, nói với tôi rằng: “Tôi chán cái ông thần Gia-vê này quá đi; ông ta
luôn luôn đòi nợ máu; không bao giờ chán ghét sự giết chóc; luôn luôn nói về
quyền năng của ông ta; luôn luôn khoe những việc ông ta làm cho người Do Thái;
luôn luôn đòi hỏi sự hi sinh tế thần – chim cu và chiên non – máu, không có gì
ngoài máu. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Thần Gia-vê đầy lòng hận thù, xảo
quyệt và quá đòi hỏi. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Mặt trời soi sáng những
vẻ đẹp của trái đất, giúp cho hoa tươi nở; nhờ có ánh sáng mặt trời mà em được
thấy anh, thấy các con của chúng ta..”
Nếu tôi theo
đúng lệnh của Thiên Chúa, tôi sẽ phải giết vợ tôi. Bàn tay của tôi là người đầu
tiên, và rồi bàn tay của bao nhiêu người khác, sẽ phải ném đá vợ tôi cho đến
chết. Về phần tôi, tôi không bao giờ giết vợ, ngay cả khi một ông Thiên Chúa
thực sự của vũ trụ này ra lệnh.
Nếu Thần Gia-vê
sống như những thần dân mà ông ta cai trị, và nếu ông ta theo đúng những luật
mà ông ta đặt ra, thì ông ta sẽ là người nuôi nô lệ, là kẻ buôn bán trẻ con,
đánh đập phụ nữ. Ông ta sẽ phát động những cuộc chiến tranh diệt chủng. Ông ta
sẽ là người đa thê, và sẽ phanh thây (butchered) vợ ông ta nếu bà ta theo một
tôn giáo khác với ông ta
Nếu Gia-vê thực
sự là Thiên Chúa toàn trí, ông ta phải biết những gì sẽ xảy ra về sau. Ông ta
phải biết Thánh Kinh của ông ta là một công sự mà sự đạo đức giả và độc đoán sẽ
nằm trong đó, nó sẽ được dẫn chứng bởi những bạo chúa; được dùng để biện hộ cho
những tên ăn cướp gọi là Vua, những kẻ đạo đức giả gọi là linh mục hay mục sư
v..v..
Ông ta phải
biết là ông ta không bao giờ thực hiện lời hứa của ông ta đối với dân Do Thái..
Ông ta hứa hẹn cho họ cả thế giới nhưng chỉ cho họ có sa mạc. Ông ta hứa hẹn
cho họ sự tự do nhưng lại cho họ sự nô lệ.. Khi chúng ta đọc xong Cựu Ước,
chúng ta bắt buộc phải nói rằng: “Không có một dân tộc nào khốn khổ như là dân
tộc mà vua của họ là Thần Gia-vê.”
Nếu chúng ta
muốn xét đến những gì đã là ảnh hưởng của Thánh Kinh, chúng ta phải xét đến
tình trạng ở Âu Châu khi mà Thánh Kinh được coi là tuyệt đối đúng và có ảnh
hưởng nhiều nhất. Ki Tô Giáo là tôn giáo đã chiếm ngự Âu Châu trong thời Trung
Cổ. Trong thời đó, nó có quyền lực tuyệt đối.
Sự thật là,
trong thời đó, con người vì đã nghiên cứu kỹ Thánh Kinh nên đã giết vợ, giết
con. Họ đọc Thánh Kinh rồi dùng những kìm cặp nung đỏ để hành hạ xác thịt con
người. Họ đặt Thánh Kinh xuống để có thì giờ đổ chì nóng vào tai đồng loại. Họ
ngưng đọc cuốn Thánh Kinh thiêng liêng đó để có thì giờ xâu xé đồng loại, trói
chặt họ trong xiềng xíxh, và rồi lại trở lại để đọc Thánh Kinh, để mặc cho nạn
nhân của họ chết rục trong ngục tù tối tăm với sự thất vọng. Họ ngưng đọc Cựu
Ước để có thì giờ đóng cọc xuống đất, đi kiếm những bó củi và thiêu sống người
lành và người lương thiện. Ngay cả những linh mục cũng đã ngưng đọc Thánh Kinh
đủ lâu để nói lên những lời giả dối xuyên tạc về đồng bào của họ. Không có một
tội ác nào mà những người đọc Thánh Kinh, tin Thánh Kinh, thờ phụng Thánh Kinh
không làm. Không có một điều ác ôn nào mà một số người đọc Thánh Kinh, tin
Thánh Kinh, và bảo vệ Thánh Kinh không làm. Những người tin Thánh Kinh và bảo
vệ Thánh Kinh đã chất đầy thế giới này với những sự vu khống (calumnies and
slanders).
Tôi không nói
rằng đọc Thánh Kinh nhất định phải làm cho người đọc trở thành bất lương, nhưng
tôi phải nói rằng, đọc Thánh Kinh không có ngăn ngừa họ khỏi phạm tội [những giáo hoàng,
linh mục, mục sư cuồng sát, loạn dâm, và phạm đủ thứ tội là những người đọc và
giảng Thánh Kinh nhiều nhất. TCN]. Tôi
không nói rằng tin ở Thánh Kinh sẽ khiến cho con người trở thành trộm cướp,
nhưng tôi phải nói rằng, vì tin ở Thánh Kinh nên con người đã bạo hành, cầm tù
và thiêu sống đồng loại.
Hàng ngàn, hàng
ngàn các bà mẹ đã đưa Thánh Kinh cho con cái mà không hề biết trong đó có những
gì. Họ chỉ theo truyền thống, và như là một quy luật, con cái họ tiếp tục tôn
kính cuốn Thánh Kinh, không phải là họ biết gì về cuốn đó nhưng vì đó là món
quà của người mẹ.
Sự kiện là các
bà mẹ giới thiệu cuốn Thánh Kinh với con cái không chứng minh được rằng đó là
cuốn sách được viết ra do sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự kiện này chỉ có thể
chứng minh một điều, đó là các bà mẹ đã tin rằng cuốn sách đó là do sự mạc khải
của Thiên Chúa Ki Tô. Điều này cũng không chứng minh được những phép lạ trong
đó là những sự thực. Dù tất cả các bà mẹ trên thế gian đều trao cho con cái
cuốn Thánh Kinh cũng không chứng minh được là những chuyện giết mẹ, giết con,
nô lệ hóa các bà mẹ, bán đi con cái, như được viết trong Thánh Kinh, là đúng.
Edmund About đã
kể một câu chuyện minh họa niềm tin Chúa của một người Ý hiện đại. Một thanh
niên ham mê đánh bạc và luôn luôn thua. Trong phòng hắn ta có một bức hình của
bà đồng trinh bồng đứa con nhỏ. Quỳ trước tấm hình, anh ta đưa tay làm dấu cộng
mà người ta thường gọi là làm dấu thánh giá, và cầu sự trợ giúp của đứa bé.
Nhưng anh ta lại vẫn cứ thua. Trở lại trước tấm hình, anh ta nói với đứa bé là
anh ta đã thua hết, chỉ còn lại đồng tiền cuối cùng, và cầu xin đứa bé hãy dùng
quyền năng thần thánh giúp anh ta thắng trong canh bạc cuối cùng này. Nhưng rồi
anh ta lại thua. Trở lại trước tấm hình, anh ta đưa nắm tay lên mặt đứa bé và
hét: “Thằng bé khốn nạn, tao rất vui là mày đã bị người ta đóng đinh trên thập
giá” (Miserable bambino, I am glad they crucified you).
Sự tin cậy vào
một hình ảnh, một thánh tích, một cuốn sách, tất cả đều từ một nguồn gốc – thờ
vật (fetishism) - Tin rằng một da con rắn, một hình ảnh, một cuốn sách có những
thuộc tính siêu nhiên, về phương diện trí thức đều như nhau.
Đối với tôi,
muốn thuyết phục những người có đầu óc là cuốn Thánh Kinh chỉ là sản phẩm của
con người – những con người man rợ – là bảo họ hãy đọc nó. Hãy đọc nó như mọi
cuốn sách khác, nghĩ tới nó như mọi cuốn sách khác, bỏ đi cái băng kính ngưỡng
Thánh Kinh đang che mắt, dẹp bỏ mọi sự sợ hãi trong lòng, loại ra khỏi đầu óc
sự mê tín, rồi hãy đọc cuốn Thánh Kinh, và các bạn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng là tại
sao có một thời mình đã cho rằng một đấng siêu nhiên với trí tuệ siêu việt,
lòng thiện vô tận, lại là tác giả của những điều ngu xuẩn và bạo tàn như vậy
(the author of such ignorance and of such atrocity)? [Ingersoll đã nhận
định rất đúng, xin đọc bài của Ruth Hermence Green kỳ tới. Lẽ dĩ nhiên, theo
đúng những tiêu chuẩn đọc Thánh Kinh của Ingersoll không phải là dễ vì trước
hết phải tẩy hết các độc tố Ki Tô ra khỏi đầu óc như Ingersoll đã đề nghị. TCN]
Trong hầu hết
các nền thần học, các huyền thoại và tôn giáo độc thần, các con quỷ còn nhân
đạo và nhân từ hơn các Thiên Chúa nhiều. Không có môt con quỷ nào đã ra lệnh
cho thuộc hạ của mình giết trẻ con và phanh thây người đàn bà co mang. Tất cả
những điều man rợ này đều luôn luôn là lệnh của Thiên Chúa chí thiện. Bệnh dịch
cũng do Thiên Chúa nhân từ tạo ra. Nạn đói đáng sợ, với những trẻ sơ sinh bờ
môi nhợt nhạt bú người mẹ hấp hối không còn sữa, cũng là tác phẩm của Thiên
Chúa đầy lòng thương yêu. Không có một con quỷ nào đã bị lên án là tác giả của
những sự tàn bạo ác ôn như trên (such fiendish brutality).
Thiên Chúa,
theo Thánh Kinh, đã nhận chìm cả thế giới trừ tám người. Già, trẻ, lớn, bé đều
bị sóng nước vô bờ nuốt chửng. Cái thảm họa đáng sợ này, trong sự tưởng tượng
của đám linh mục ngu đần (ignorant priests), là tác phẩm không phải của quỷ, mà
là của cái mà người ta gọi là Thiên Chúa, và tiếp tục thờ phụng một cách ngu
đần cho đến ngày nay. (ignorantly worship unto this day).
Không có một
người thông minh nào, không có một người nào mà đầu óc chưa bị nhiễm độc bởi mê
tín, tê liệt bởi sợ hãi, có thể đọc Cựu Ước mà không bắt buộc phải đi đến kết
luận: Thiên Chúa của chúng ta là một con thú hoang dại (that our God was a
wild beast).
Cho tới bao
giờ, than ôi! Cho tới bao giờ con người còn thờ phụng một cuốn sách? Cho tới
bao giờ con người còn quỳ phục xuống đất trước những truyền thuyết ngu đần của
cái quá khứ man rợ? (Hoaw long will they grovel in the dust before the ignorant
legends of the barbaric past). Cho tới bao giờ họ còn theo đuổi những hồn ma
trong sự tăm tối sâu thẳm hơn là cái chết.
Cho tới bao
giờ, than ôi! cho tới bao giờ con người còn nghe lời đe dọa của Thiên Chúa,
nhắm mắt lại trước thiên nhiên huy hoàng ngoạn mục? Cho tới bao giờ con người
còn là nô lệ, bám víu vào một giáo thuyết sai lầm và độc ác? (a false and cruel
creed).
Ngày nay, cả
thế giới nên biết rằng cuốn Thánh Kinh chân thật (the real Bible) chưa đã được
viết ra mà còn đang viết, tiếp tục viết, và không bao giờ hoàn thành cho đến
khi nhân loại không còn tồn tại nữa./.
Có
thể có người, nhất là các tín đồ GiaTô giáo, không tin những tài liệu trên là
đúng. Tôi khuyên họ hãy mở cuốn Thánh Kinh ra đọc từ dòng đầu tới dòng cuối,
rồi đọc lại lịch sử CaTô LaMã giáo trên hoàn cầu đã được tóm lược trong chương
II, họ sẽ thấy ngay sự tương quan giữa những điều dạy trong Thánh Kinh và hành
động của giáo hội CaTô. Họ sẽ thấy ngay là những hành động của giáo hội CaTô
trong suốt 20 thế kỷ nay là bắt nguồn từ những giáo lý trong Thánh kinh chứ
không phải là do một vài giáo hoàng, như lời biện hộ gần đây của một đại trí
thức CaTô Việt Nam,
bị cái "chước cám dỗ làm điều thiện". Bản chất các giáo lý đã không
thiện rồi và chính những giáo lý không thiện này đã đưa đến những hành động bất
thiện. Khi đó họ có thể phối kiểm những điều mà những tác giả kể trên đã viết
về Thánh kinh và sẽ thấy họ không viết sai sự thực, dù bản Thánh Kinh bằng
tiếng Việt đã được lược bớt một số mâu thuẫn và những đoạn "không thể đọc
được" so với bản tiếng Anh, King James.. Tôi cũng cần phải ghi ở đây là
những tài liệu dẫn chứng trong bài viết này chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ
của toàn bộ những tài liệu đã được xuất bản về lịch sử CaTô giáo và Thánh kinh
CaTô, và trong phần tài liệu tham khảo ở cuối bài tôi cũng chỉ đưa ra một số
tài liệu chọn lọc mà thôi.
Một
câu hỏi được đặt ra: "Thế trong Thánh kinh không có đạo lý hay sao?"
Câu trả lời là: "Hơn 90% cuốn Thánh Kinh là những chuyện thuộc vùng đất Do
Thái, thuộc lịch sử Do Thái và là những chuyện chém giết, vô luân, độc ác
v..v.. cùng những tín lý chứ không phải là đạo lý." Phần còn lại, như bài
giảng trên núi, cũng không có gì đặc biệt, không có gì mới lạ, không có gì theo
kịp, khoan nói đến chuyện vượt qua, được những tư tưởng, giáo lý của Phật Giáo,
Khổng Giáo và Lão Giáo. Tôi thách đố bất cứ ai có thể đưa ra bất cứ đạo lý nào,
tôi xin nhấn mạnh: đạo lý chứ không phải là tín lý, trong Thánh Kinh mà ta
không thể tìm thấy trong Nho, Thích, Lão, và có thể minh xác cho độc giả thấy
cái đạo lý trong Thánh Kinh là cái đạo lý như thế nào, có nhất quán hay không,
hay là mâu thuẫn với rất nhiều điều vô đạo ở trong cuốn Thánh Kinh?
Những
tín đồ CaTô giáo thường không đọc Thánh Kinh, và thường là những người các linh
mục "bảo sao nghe vậy", mà linh mục lại là những người Tòa Thánh
"bảo sao nghe vậy", cho nên họ vẫn tin rằng Thánh Kinh là những lời
mặc khải của Thượng đế, do đó không thể sai lầm và tất nhiên phải chứa những lời
khuyên răn về tình thương, luân lý, đạo đức v...v...Ngoài ra, theo lời
"Giáo hội dạy rằng", họ tin rằng CaTô giáo là cái đạo chân thật duy
nhất, cao quý nhất trên hoàn cầu. Họ bị một cái guồng máy nhồi sọ tinh vi của
Giáo hội đưa vào đầu óc họ từ lúc còn nhỏ tuổi những thông tin sai lầm thí dụ
như: nền văn minh tiến bộ ở Âu Mỹ là nền văn minh KiTô giáo, và rằng giáo hội
CaTô đứng đầu trong việc tôn trọng nhân quyền, bảo vệ tự do tín ngưỡng, tự do
ngôn luận, là bạn của dân nghèo, là quán quân trong các việc thiện, là tiền phong
trong vấn đề giáo dục mở mang đầu óc con người. Các học giả nghiên cứu về Ca Tô
Giáo Rô-ma đã coi những điều tuyên truyền trái ngược với sự thực của Giáo hội
như trên là "Học Thuật Ca Tô" (Catholic scholarship).
Đây
chính là chủ đề mà tôi muốn trình bày phần nào chi tiết trong chương tới.
CHƯƠNG VI
HỌC THUẬT GIA TÔ
(Catholic scholarship)
Tới
đây tôi đã trình bày sơ lược những sự kiện lịch sử không thể phản bác về lịch
sử giáo hội GiaTô từ ngày đầu cho tới ngày nay. Tôi cũng đã chứng minh rằng, sở
dĩ Giáo hội Gia Tô La Mã có một lịch sử đen tối như vậy là vì giáo hội đã reo
rắc một niềm tin sai lạc, dựa vào quyền năng của Thánh Kinh, trong đó có rất
nhiều điều sai lầm, phi luân lý, phi đạo đức, của thời bán khai, vào trong đầu
óc của các tín đồ. Giáo hội đã vận dụng tối đa "học thuật Gia Tô" để
cho thế giới quên đi lịch sử đen tối, đẫm máu của Giáo hội, đồng thời đưa vào
đầu óc tín đồ một hình ảnh trái ngược hẳn với hình ảnh thực sự của Giáo hội.
Học thuật Gia Tô (Catholic scholarship) bao gồm những lý thuyết Thần học mơ hồ
để bảo vệ đức tin Gia Tô, chủ yếu nhằm vào giới trí thức; những sách lược tuyên
truyền về "những cái hay" nhưng sai tự thực của Giáo hội để thu hút
và giữ tín đồ; những tín lý vô căn cứ của Giáo hội đưa ra để duy trì quyền lực
tự phong của giới lãnh đạo Gia Tô. Ngoài ra, Giáo hội cũng còn dùng mồi
"phong Thánh" cùng tạo ra những cái gọi là "phép lạ" để
khai thác triệt để lòng mê tín dị đoan của đám đông tín đồ đầu óc vốn yếu kém,
mù mịt. Đề tài này sẽ được bàn tới trong một chương riêng biệt. Học thuật Gia
Tô thành công vì Giáo hội đã đào tạo được một lớp cán bộ truyền giáo trung kiên
(linh mục), kiến thức thực sự không có là bao, nhưng rất hữu hiệu trong vấn đề
uốn nắn đầu óc giáo dân ngay từ lúc sơ sinh vào một niềm tin mù quáng, không
cần biết, không cần hiểu, và nhất là tuyệt đối theo lệnh của Vatican, vì tin
rằng Giáo hoàng nắm giữ chìa khóa mở cửa Thiên đường. Giáo hội vẫn tự nhận là
một Hội Thánh "thánh thiện", và tín đồ cũng tin như vậy. Chúng ta có
thấy trên thế gian một tôn giáo "không thánh thiện" nào khác mà có
một lịch sử truyền đạo một cách tàn ác, bất nhân đối với nhân loại như là Giáo
hội "thánh thiện" Gia Tô La Mã không? Một luận cứ Giáo hội thường
dùng ngày nay để bào chữa cho cái lịch sử đen tối của Giáo hội và lạc dẫn dư
luận thế giới là: "Đó là những chuyện lịch sử xa xưa, nhắc lại làm chi.
Ngày nay Giáo hội đã văn minh, không còn những cuộc Thánh Chiến, đã bãi bỏ
những tòa hình án xử dị giáo, đâu có làm gì xấu ác. Trái lại Giáo hội đã tham
gia vào bao nhiêu việc thiện trên thế giới, tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ
v...v.." Tôi đồng ý là giáo hội ngày nay không còn giết người như trong
các cuộc Thánh chiến và các tòa hình án xử dị giáo. Nhưng cái tinh thần Thánh
chiến và tòa hình án vẫn không thay đổi bao nhiêu, trong chính giáo hội mẹ, và
trong những giáo hội con với sự đồng ý của giáo hội mẹ. Thực ra thì qua bao thế
kỷ nhân loại đã văn minh hóa GiaTô giáo nên giáo hội không còn quyền lực và khả
năng để giết người bừa bãi như trước nữa. Nhưng những việc làm của giáo hội cho
tới ngày nay vẫn không sáng sủa chút nào, vẫn trực tiếp hay gián tiếp dính líu
vào những chính sách độc tài với tinh thần Thánh chiến và Tòa hình án xử dị
giáo của những chế độ độc tài, phát xít ở các nơi trên thế giới như ở Nam Mỹ,
Croatia, Nam Việt Nam, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, Đức, Ý v..v... Những vụ dính líu
này càng ngày càng được phơi bày ra ánh sáng. Chúng ta hãy đọc vài sự kiện
trong lịch sử thế giới cận đại (Joseph L. Daleiden, Ibid., trg. 61-62):
"Cố gắng dập tắt mọi sự chống đối các giáo hoàng và cái điều ám ảnh họ về
sự duy trì quyền thống trị của giáo hội GiaTô vẫn tiếp tục qua các thời đại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nó có tính chất của một hành động bảo toàn lực
lượng mà giáo hội dùng để bảo vệ cái quyền lực đang suy giảm của mình bằng cách
liên minh với bất cứ ai mà có lợi. Sự hợp tác của các giáo hoàng với những
chính quyền phát xít ở Âu Châu và Nam Mỹ cho thấy những biện pháp cực đoan ô
nhục mà các giáo hoàng dùng để bảo tồn địa vị của họ. Giáo hội chống cuộc chiến
đấu giành độc lập của Mễ Tây Cơ và tuyệt thông các lãnh tụ của họ. Sau đó giáo
hội chống lại sự thành lập hệ thống cộng hòa liên bang và phản đối mạnh mẽ
nguyên tắc tự do tín ngưỡng trong hiến pháp Mễ Tây Cơ. Năm 1930 chính quyền hợp
hiến ở Á Căn Đình bị lật đổ và một chế độ độc tài phát xít được thiết lập với
tình trạng thiết quân luật. Vì chế độ mới tuyên bố trung thành với GiaTô giáo,
họ được giáo hội ủng hộ mau chóng. Năm 1936 giáo hoàng nồng nhiệt liên minh với
nhà độc tài phát xít Francisco Franco ở Tây Ba Nha trong nỗ lực dẹp quân phiến
loạn Tây Ban Nha. Franco thưởng lại bằng cách thiết lập giáo hội GiaTô làm quốc
giáo (Quyền lợi này bị bãi bỏ khi nhà độc tài Franco chết và một hiến pháp dân
chủ được chấp thuận năm 1978.) Tuy nhiên, sự liên minh với Franco chỉ là một chuyện
ngoài lề qua vai trò mà giáo hội sẽ đóng trong sự khởi giậy và củng cố quyền
lực của Hitler và Mussolini, một vai trò mà các giáo hoàng muốn chúng ta đều
quên đi. Giáo hoàng Pius XI ký một thỏa ước và hiệp định Lateran với Mussolini
năm 1929, và gọi Mussolini là "người Thượng Đế gửi xuống". Bốn năm
sau, đại sứ của giáo hoàng là Pacelli, sau trở thành giáo hoàng Pius XII, thúc
giục đảng GiaTô bỏ phiếu cho Hitler trong cuộc bầu cử sau cùng, trước khi đảng
quốc xã lên cầm quyền. Đối với giáo hoàng thì bất cứ những sự tàn bạo nào của
một chính quyền đối với nhân loại cũng không thành vấn đề chừng nào mà chính
quyền đó đủ khôn ngoan để cho giáo hoàng giữ được quyền lực. Khi Ante Pavelich
dựng lên một quốc gia GiaTô Croatia và giết hại trên 600.000 người, hầu hết là
những người thuộc Chính Thống giáo chống đối sự thống trị của Pavelich thì Giáo
hội GiaTô giữ yên lặng." (The effort to stamp out any opposition to the
popes and their obsession with maintaining the rule of the Catholic Church has
continued down through the ages. In this century, however, it has been more of
a rear guard action, with the Church seeking to protect its dwindling authority
by making alliances with whoever would serve its interests. The collaboration
of the popes with fascist governments in Europe and South America shows the
shameful extremes the popes have been willing to go to, to preserve their
position. The Church opposed the Mexican war of independence and excommunicated
its leaders. Later the Church fought the establishment of the federal republic
system and vigorously protested the inclusion of the principle of religious
freedom in the Mexican constitution. ln 1930 the constitutional government was
toppled in Argentina
and a fascist dictatorship established, complete with martial law. Since the
new regime proclaimed its allegiance to Catholicism, it was quickly supported
by the Church. In 1936 the pope was eager to ally himself with Spain's fascist
dictator Francisco Franco in his effort to squash the Spanish rebellion. As its
reward the Catholic Church was established as the state religion. (With the
approval of a democratic constitution in 1978 after the dictator's death the
Church lost this privilege.) The Franco deal, however, was merely an aside to
the role the Church would play in the rise of consolidation of power of Hitler
and Mussolini, a role the popes would like us all to forget. Pope Pius XI
signed a concordat and the Lateran Treaty with Mussolini in 1929, and called
him "the man sent by Providence."
Four years later, Papal Nuncio Monsignor Pacelli, who was soon to become Pius
XII, urged the Catholic Party to vote for Hitler in the last German election
prior to the Nazi takeover. It made no difference what atrocities a government
committed against humankind as long as it was shrewd enough to let the pope
retain his titular authority. When Ante Palevich set up the Catholic state of Croatia and
slaughtered 600,000 persons, primarily those belonging to the Orthodox Church
who opposed his rule, the Catholic Church was mute.) Không những Giáo hội Gia
Tô yên lặng trước hành động tàn bạo giết người như trên của một chính quyền Gia
Tô đối với những người khác tín ngưỡng, mà gần đây, tháng 10, 1998, Giáo hoàng
John Paul II còn tôn vinh, sửa soạn phong Thánh cho Hồng Y Aloysius Stepinac,
người có liên hệ mật thiết với chính quyền Gia Tô độc tài ở Croatia trong kỳ Đệ
Nhị Thế Chiến. Lý do tôn vinh? Ông Hồng Y này đã từng cộng tác chặt chẽ với
phát xít Đức để chống Cộng sản. Sự tôn vinh đượm màu sắc chính trị này, cũng
như cuộc viếng thăm Croatia trước đây của John Paul II, chứng tỏ Tòa Thánh đứng
hẳn về phe Gia Tô Giáo trong cuộc nội chiến đang tiếp diễn ở Bosnia, đã khiến
cho báo chí thế giới lên tiếng phê bình , chỉ trích. Trong báo Chicago Tribune
ngày 17 tháng 10, 1998, dưới đầu đề Lính chiến, không phải là Thánh (Soldier,
not Saint), Jim Mantice viết như sau: "Tôi bảo đảm với quý vị rằng có
nhiều bằng chứng về sự hợp tác chặt chẽ giữa Stepinac và Đức Quốc xã, thí dụ
như: - Do sự bổ nhiệm của Giáo hoàng Pius XII, Stepinac là Tuyên úy danh dự của
đoàn quân Ustache, đoàn quân này được đặt dưới quyền chỉ huy của Đức quốc xã .
- Stepinac được ban huân chương Đại Thánh Giá và Sao, một mề đay của Ustache mà
ông thường hãnh diện đeo trong những cuộc tụ họp của Đức quốc xã. - Hàng trăm
linh mục dòng Francis, nằm trong quyền hạn và xét xử của Stepinac, là nhân viên
cao cấp trong nhiều trại tập trung ở Croatia." (I assure you that
much more telling evidence tying Stepinac to the Nazis. For example: - By
appointment of Pope Pius XII, Stepinac served as honorary chaplain of the
Ustache army, which was under Nazi command. - Stepinac was awarded the Grand
Cross and Star, a Ustashe medal he proudly displayed at Nazi rallies. -
Hundreds of Franciscan priests, under Stepinac's juridiction, staffed many of Croatia's
concentration camps.) Tưởng chúng ta cũng nên biết, Ustasha là một tổ chức
khủng bố do một số trong hàng giáo phẩm Gia Tô ở Croatia cầm đầu, gồm có cả
Hồng Y, Giám mục, Linh mục. Tổ chức này đã tàn sát hơn 600.000 dân Serb (theo
Chính Thống Giáo), dân Do Thái và Gypsies, và Vatican
có liên hệ mật thiết với tổ chức này. (Chicago Tribune, July 23, 1997,
Associated Press: "Ustashas who controlled Croatia during the war
exterminated hundreds of thousands of Serbs, Jews and Gypsies and historians
have denounced the Vatican for maintaining ties to the regime led by Ante
Palevich). Một nhân vật có "thành tích" như vậy mà được tôn vinh để
sửa soạn phong Thánh thì chuyện phong 117 Thánh ở Việt Nam cũng chẳng
lấy chi làm lạ. Quý độc giả nào muốn biết thêm vế nhân vật Stepinac xin đọc
cuốn Lò Thiêu Sống Của Vatican (The Vatican's Holocaust) của Avro Manhattan,
trong đó có hình ảnh Stepinac, khi đó còn là Tổng Giám Mục, ngồi cạnh những
lãnh tụ Đức quốc xã, cùng hình ảnh linh mục cắt cổ dân Serb, hoặc dồn một đám
đông dân Serb vào trong giáo đường của họ rồi thiêu sống tập thể... Sau đây,
tôi xin trích dẫn thêm một tài liệu, nói về vai trò của giáo hội trong lịch sử
Việt Nam cận đại (Daleiden,
Ibid., trg. 62): "Spelllman là người chủ chốt của giáo hoàng làm cho Mỹ
tham chiến sâu đậm ở Việt Nam.
Theo một bức thư chính thức của Vatican,
giáo hoàng "dùng Spellman để khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam." Mọi
viện trợ nhân đạo cho miền Nam
đêu đi qua các cơ sở của giáo hội Gia Tô và chỉ có những người Gia Tô là được
Diệm bổ nhiệm vào trong chính phủ. Tuy rằng những chính sách như vậy đưa đến
việc cải đạo hàng loạt, số tín đồ Gia Tô chỉ chiếm vào khoảng từ 12 tới 13 phần
trăm của dân số miền Nam.
Không lạ lùng gì mà khối đa số Phật Giáo bất bình đưa đến việc công khai chống
đối chính sách của Diệm. Tình trạng ngày càng suy kém, Diệm đã dùng đến biện
pháp bắt giữ hàng loạt, đàn áp Phật tử, đóng cửa chùa chiền và tu viện. Qua
kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đã biết rằng sự đàn áp chỉ làm cho lý
tưởng mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoàng của thế giới, giới Phật tử đã phải
dùng tới hành động chống đối tiêu cực rốt ráo và nhiều tăng sĩ đã tự thiêu.
Trong những khoảng thời gian đáng sợ đó, tôi, một tín đồ GiaTô, không nhớ có
một lời chỉ trích chính sách của Diệm từ một linh mục hay giám mục GiaTô nào.
Tuy nhiên, sự việc đã lên quá mức đối với Tổng Thống John Kennedy, ông ta thôi
không ủng hộ Diệm nữa. Ít lâu sau đó Diệm bị hành quyết trong một cuộc lật đổ
chính quyền. Qua cái diễn tiến kinh khủng này vai trò của giáo hội đã theo đúng
cái tiến trình lịch sử nhơ nhớp của giáo hội." (Spellman was the papal
point man to lead America
into deeper involvement in Vietnam.
According to a Vatican official letter, the pope "turned to Spellman to
encourage American commitment to Vietnam." All US relief to
the South was funneled through the Catholic Church's agencies and only
Catholics were appointed to government positions by Diem. Although these
policies resulted in a wave of conversions, Catholics still made up only about
12 to 13 percent of the South Vietnamese population. Not surprisingly, the
resentment among the Buddhist majority soon resulted in their open resistance
to Diem's policies. As the situation deteriorated, Diem resorted to mass
arrests and suppression of the Buddhists, closing shrines and monateries. As
the Church should have known from its own early experience, persecution can
only strengthen a cause. As a horrified world watched, the Buddhists resorted
to the ultimate act of passive resistance and several monks set themselves
ablaze. During these terrible times, when I, too, was a Catholic, I don't
recall one word of criticism of Diem's policies from a Catholic priest or
bishop. However, it finally became too much for President John Kennedy, who
withdrew US
support for Diem. Diem was soon executed in a coup. Throughout this dreadful
ordeal the role of the Church followed true to the course of its sordid
history.) Qua những tài liệu lịch sử sơ lược kể trên, có thể nào chúng ta tin
được lời tuyên truyền của Giáo hội về hình ảnh "Thánh thiện" của Giáo
hội hay không? Lịch sử đã chứng minh rằng, những điều mà Giáo hội tuyên truyền
là xuất phát từ Ki Tô Giáo như nền văn minh Tây phương, ý niệm về tự do, nhân
quyền v..v.. lại chính là những điều mà giáo hội chống đối và giật giải quán
quân về vi phạm. Sau đây tôi xin đi vào chi tiết của vài điểm tự nhận của Giáo
hội và chứng minh rằng những điểm tự nhận này chỉ là những lời tuyên truyền
hoàn toàn sai với sự thực của giáo hội trong sách lược lừa dối giáo dân. 6.1.
Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ. Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy
cái nền văn minh Âu Mỹ làm nền văn minh KiTô. Giáo hoàng John Paul II phát biểu
là "Một nền văn minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh
KiTô." Hồng Y Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng
định họ "đang chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương."
Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của GiaTô giáo, chính sách tiêu
diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại dân Do Thái, và
đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh v..v..
Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời
không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin vào
KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và đóng góp những gì? Hay là
nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ Galilei rồi phát triển qua những khoa học
gia, tư tưởng gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt
giam nữa. Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Gia Tô La Mã nắm quyền thống trị
ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu
Châu trong 10 thế kỷ. Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu
Châu những thời đại Phục sinh (Renaissance), thời đại Khai sáng (the age of
Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa
học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of
analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những thới đại
này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã chứng minh
rằng, Giáo hội Gia Tô đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí thức của nhân loại
này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Các đại tư tưởng gia Tây phương như Voltaire,
Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas Paine v...v.. là những người đi tiên
phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề xướng quyền tự do và nhân quyền của con
người. Tác phẩm của họ đều bị Giáo hội giam chặt trong cái gọi là "danh
sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc" (Index of banned books). Những khoa học
gia tiên phong của cuộc cách mạng khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno,
Galileo v...v... đều bị Giáo hội dùng "bạo quyền thắng sự thật" giam
cầm hoặc thiêu sống. Vậy, có thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền
văn minh Ki Tô? Có lẽ chúng ta nên duyệt qua vài tài liệu lịch sử để thấy thực
chất của Gia Tô La Mã Giáo trong nền văn minh Tây phương như thế nào. Trước
hết, chúng ta cần biết là nền văn minh Âu Mỹ được xây dựng trên những tư tưởng
khai phóng về những quyền tự do căn bản của con người như tự do tín ngưỡng, tự
do suy tư v..v.., những quyền mà giáo hội luôn luôn chống đối, và những thành
quả khoa học với kết quả làm tăng mức sống thoải mái của con người. Giáo hội đã
góp được những phần nào trong sự tiến bộ của con người qua các thời đại? Hàng
giáo phẩm Gia Tô, với nhiệm vụ chăn dắt tín đồ, đã làm những gì để mở mang đầu
óc của những tín đồ ngoài một số tác phẩm về Thần học mà mục đích chỉ để bảo vệ
các tín lý giáo hội đưa ra, giữ tín đồ trong vòng mê tín, ngu muội. Điều này
chúng ta có thể thấy rõ khi khảo sát về thực chất đào tạo những cán bộ lãnh đạo
Gia Tô Giáo, các linh mục, giám mục, của Giáo hội Gia Tô, và từ đó suy ra sự
đóng góp của họ trong nền văn minh Âu Mỹ. Linh Mục Joseph McCabe mô tả về sự
đào tạo linh mục vào khoảng đầu thế kỷ 20 trong cuốn Sự Thực về Giáo Hội Gia Tô
(The Truth About The Catholic Church, trang 89-90) như sau: "Các linh mục
được tuyển mộ khi còn rất trẻ tuổi, và thường được tuyển trong giới ít học.
Trong mọi quốc gia, hiện nay giáo hội gặp khó khăn trong việc tuyển mộ những
người xứng đáng, và do đó phải hạ thấp nhiều tiêu chuẩn về khả năng. Như là một
quy luật, được chọn vào làm nghề linh mục là những thanh niên trẻ, đối với họ
việc tấn phong linh mục có nghĩa là được thăng lên một địa vị và uy tín mà với
những khả năng của họ, họ không thể đạt được ở ngoài đời. Điều này đặt cái gánh
nặng đào tạo họ hầu như hoàn toàn vào trong tay giáo hội, và sở học của họ
thường rất nghèo nàn. Rất ít linh mục đọc được những tác phẩm của những tác giả
viết bằng tiếng La Tinh (trừ Ceasar), hay là hiểu Horace, Tacitus, hay Juvenal.
Về tiếng Hi Lạp, như là một quy luật, họ chỉ có một kiến thức sơ đẳng mà họ
thường quên ngay. Về khoa học, lịch sử, và triết lý, theo cái nghĩa hiện đại,
như là một quy luật, họ không có một kiến thức nào. Khoa học được dạy trong một
số rất ít các trường huấn luyện Linh mục và cũng chỉ ở trình độ sơ đẳng và
trong một thời gian ngắn. Sử học được trình bày trong vài bài về lịch sử Ca Tô,
do các tác giả Ca Tô viết. Về khoa học và sử học, tôi không được học một bài nào
trong suốt thời gian đào tạo, và, như tôi đã nói, cái "triết học" mà
tôi học được chỉ liên hệ đến triết học hiện đại một cách ít ỏi như là sự liên
hệ của khoa chiêm tinh học với thiên văn học. Cái nền giáo dục mà giáo hội ban
cho tôi đã được chứng tỏ rõ ràng khi tôi "trở lại đời". Tôi không thể
kiếm được một chân dạy học với đồng lương 10 đô la một tuần. Ông Forbes, bạn
tôi, sau khi khảo sát kiến thức của tôi, rất tiếc mà bảo tôi rằng, sở học của
tôi thật là vô dụng. 3 Linh mục đồng nghiệp của tôi lặng lẽ bỏ giáo hội ra kiếm
sống ở ngoài đời. Cả 3 đều thất bại và phải quay trở lại giáo hội. Giáo hội
chắc chắn là có nhiều linh mục như vậy." (Recruits are now sought at a
very early age, and usually from the less educated class...The Church now, in
all countries, has a difficulty in securing the proper type of recruits, and
the theoretical qualifications have to be considerably lowered. As a rule, the
priesthood is recruited by the adoption of young boys to whom ordination means
promotion to a position and prestige which their personal merits would not
otherwise obtain for them. This casts the burden of their training almost
entirely upon the Church, and their education is generally very poor. Very few
priests could read any Latin author (except Ceasar) at sight, or make much
sense of Horace, Tacitus, or Juvenal. Of Greek they have, as a rule, received
only an elementary knowledge, which they soon forget. Of science, history, and
philosophy, in the modern sense, they, as a rule, know nothing. Science is
taught in very few training-colleges for the clergy, and then only in the most
elementary form and for a very short time. History is represented only by a few
lessons, from Catholic writers, on Church history... In science and history I
did not receive one single lesson in the whole course of my training; and, as I
said, my "philosophy" had as little relation to modern philosophy as
astrology has to astronomy. The value of the education given to me in the
Church was made plain the moment I returned to "the world"...I could
not get a position as a teacher at ten dollars a week. My friend Mr. Forbes,
regretfully told me, after a short examination, that my "education"
was quite useless...Three of my colleagues secretly left the Church and tried
to earn their living. Each failed, and had to return..The Church must have a
high proportion of such men.) Linh Mục James Kavanaugh, trong cuốn Một Linh Mục
Hiện Đại Nhận Xét về Giáo Hội Lỗi Thời Của Ông (A Modern Priest Looks at His
Outdated Church", trg. 20-21), có kể về sự huấn luyện các linh mục như
sau: "Sau Trung học tôi theo học 4 năm cho đến khi tôi được nhận là có đủ
khả năng làm Linh mục. Trong học trình của tôi, rất hiếm khi bàn đến những nghi
vấn hay quan niệm mà thường là hoặc trắng hoặc đen. Thí dụ như, trong môn triết
học, chúng tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ..Chúng
tôi phải học thuộc lòng từng mỗi đề luận và định nghĩa và chứng minh rằng
"lý trí" chỉ có thể dẫn một người lương thiện đến niềm tin. Chúng tôi
là những người chân thật duy nhất vì chúng tôi đã bênh vực bằng "lý
trí" tất cả những giáo lý về đạo đức của giáo hội. Giáo hội Gia Tô chống
ly dị và kiểm soát sinh đẻ, chống tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, chống sự
giải thoát con người khỏi những cơn đau đớn, chống ngoại tình, tất cả đều là
những kết luận hiển nhiên của một "lý trí" không bị che mờ bởi ham
muốn và lòng kiêu hãnh. Sự hiện hữu của hàng triệu người "không có lý
trí" có vẻ như là không quan trọng đối với giáo hội... Đó là một nền giáo
dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện không có sự giúp đỡ. Tôi nghe
những gì họ muốn tôi nghe, và nói những gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như
vậy. Người nào chống đối thì bị gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật
lệ, hay những kẻ ngây thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến
khích trừ phi đi theo đường lối đã được chấp nhận. "Tà đạo" là danh
từ để chấm dứt mọi luận cứ, và "Giáo hội dạy rằng" là nghị trình nhỏ
hẹp của mọi tranh luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được
khuyến khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để bênh vực giáo hội. Người ta
không muốn tôi suy tư mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng. Chúa ơi! Tôi đã trở thành
cái gì? Người đòi hỏi tôi dẫn dắt con chiên với sự yếu kém của xác thịt tôi,
phục vụ những người đang vật lộn với tội lỗi, và tôi đã trở nên một người cứng
rắn và thoải mái trong sự phục vụ chính mình. Tôi không phải là "một đấng
Ki Tô khác", (Giáo lý Gia Tô nhét vào đầu những tín đồ có đầu mà không có
óc cái giáo lý giáo hội bịa ra để ngự trị trên đám tín đồ là: "Cha cũng
như Chúa". Chẳng thế mà gần đây ở trong nước, trước những lời than phiền
của giáo dân về sự bê bối của các Cha thì có ông Giám mục răn rằng: "Các
con đừng có nói hành các Cha mà mắc tội với Chúa." (xin đọc bức thư ngỏ
của LM Nguyễn Hữu Trọng gửi Giáo Hoàng và Hồng Y Phan Đình Tụng, đăng trong
cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2; TCN)) và tôi cũng không hẳn là một con
người. Tôi chỉ là một tù nhân, một mẫu mực được tổng hợp, một kẻ bênh vực cho
một quá khứ mệt mỏi. Chúa ơi! Nếu tôi sẽ trở thành một linh mục thì trước hết
hãy để cho tôi làm một con người đã. Đừng bắt tôi phải trốn đằng sau cái cô áo
thày tu, chức tước, cái bề ngoài giả dối của tôi. Đừng bắt tôi phải đưa ra
những câu trả lời mà chính tôi không còn tin, hoặc bắt tôi phải đúc nặn giáo dân
thành những người không có nhân tính và những người đần độn chỉ biết tuân phục.
Hãy để cho họ biết đến những nghi vấn do chính miệng tôi nói ra, và hãy để cho
họ nói ra những nghi vấn của họ một cách thật thà. Đừng để cho tôi trói buộc họ
vào giáo luật và địa ngục, hoặc làm họ sợ hãi với những câu chuyện về cái chết
bất ngờ..." (I studied four years after college until I was declared ready
to be a priest. My studies spoke seldom of doubts or opinions and most
frequently of blacks and whites.. In philosophy, for example, we could handle
Berkeley, Hume, and Kant in a single week... We memorized each thesis and
definition and proved that "reason" could only lead an honest man to
faith. We were the only honest men as we defended by "reason" all the
moral teachings of the Church. Catholic opposition to divorce and birth
control, to freedom of speech and thought, to mercy killing and adultery were
all the obvious conclusions of a "reason" unclouded by passion and
pride. It did not seem important that there were millions of
"unreasonable" men...It was an education without sympathy, a training
without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the
administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and
legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged
unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved.
"heresy" was a word which ended every argument, and "the Church
teaches" was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was
formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked
to reflect, but to memorize. ...My God! What have I become? You asked me to
minister with the weakness of my flesh, to serve the struggling sinner, and I
have grown rigid and comfortable in the service of myself. I am not
"another Christ," I am not even a man, I am only a prisoner, a
synthetic paragon, a defender of the tired past. O God! If I am to be a priest,
first lat me be a man. Do not let me hide behind my collar, my titles, my false
front. Do not make me give answers I do not believe, nor mold men into
impersonal and uncomplaining dolts. Let them know my doubts from my own lips,
and let them tell me honestly of theirs. Let me not bind them with law and
hell, nor frigten them with tales of unexpected death...) Linh Mục Emmett
McLoughlin mô tả thực chất giáo dục Gia Tô trong việc đào tạo Linh mục như sau,
trong cuốn Văn Hóa Mỹ và các Trường Học Gia Tô (American Culture and Catholic
Schools, trg. 36 -37): "Tôi không được học để suy nghĩ. Từ những năm của
thời thơ ấu qua thời kỳ thiếu niên bối rối (trong nhà Dòng) cho đến khi thành
người lớn, đầu óc tôi bị đúc trong một mô thức trí thức cũng như là được đúc
trong bê tông. Sự tiếp cận khoa học của tôi trong 21 năm là một cua về vật lý
sơ đẳng. Trong 12 năm, tôi chẳng học được gì về văn học nổi tiếng của hoàn cầu.
Những ánh sáng trí thức này được giam chặt trong Danh Sách Những Cuốn Sách Cấm
Đọc của Giáo hội. Nói ngắn gọn - tôi không được giáo dục - tôi chỉ bị tẩy não.
Tôi đã đạt đến trình độ khô cứng của sự hiểu biết trí thức xoàng xĩnh. Tôi đã
trở nên một người máy, một linh mục với những lễ nghi thiêng liêng không rõ
ràng, vô nghĩa ở sự hiệu quả của chúng cũng như là những bài ca của các thầy
Pháp Haiti.
Tôi là một kỹ thuật viên của giáo hội được huấn luyện để đúc nặn những bộ óc
trẻ, dễ uốn nắn... " (I did not learn to think. As the years of childhood
slipped through a frustrated adolescence (in the seminary) into the days that
were supposed to be those of manhood, my mind was molded in an intellectual
pattern as effectively as though it had been cast in concrete. The closest
approach to science that I experienced in those 21 years was that a
non-laboratory course in elemental physics...Of the world's really great
literature, in 12 years I learned practically nothing. Its greatest lights were
locked in the prison of the Index of Forbidden Books. In short, I was not
educated. I was merelyendoctrinated. I had achieved the level of the rigor
mortis of intellectual mediocrity. I had become an automaton, a priest of
sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of a
Puerto Rican woodoo priest. I was an ecclesiastical technician trained to mold
other young, pliable minds...) Kiến thức của các giám mục, linh mục cũng được
Linh Mục Trương Bá Cần nhận định như sau trong cuốn Nguyễn Trường Tộ: Con Người
Và Di Thảo: "Về Tây học, thì ông (Nguyễn Trường Tộ) quả có được các linh
mục thừa sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt
một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất phổ thông...vì các thừa sai thuộc
Hội Truyền Giáo Nước Ngoài (MEP) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình
phổ thông, rồi vào các đại chủng viện học làm linh mục để gởi đến các nước
truyền đạo". Từ những tài liệu trên, viết bởi các linh mục, chúng ta thấy
rằng, mục đích đào tạo các linh mục là biến họ thành những cái loa phóng thanh
của Tòa Thánh Vatican, chứ không phải để mở mang đầu óc con người, mà trái lại
để tẩy não, gò bó đầu óc con người theo một chiều hướng nhất định và do đó,
những linh mục sau khi tốt nghiệp cũng giống như những con ngựa bị che mắt, chỉ
biết đi theo một hướng nhất định. Cái hướng nhất định này là dùng mọi thủ đoạn
để thu nhặt tín đồ, vơ vét của cải thế gian, và bảo vệ những tín lý của Gia Tô Giáo
qua những luận cứ Thần học mập mờ, ngoài khả năng phán đoán của đa số tín đồ ít
họcư. Với phương cách giáo dục như vậy, các linh mục khó có thể rời bỏ giáo hội
vì kiến thức của họ không thể dùng được ở ngoài đời. Địa vị, uy tín, và đời
sống thoải mái về vật chất trong sự kính trọng, qụy lụy của giáo dân cũng là
những yếu tố quan trọng để ngăn linh mục bỏ giáo hội. Phương cách huấn luyện và
nắm giữ linh mục như trên đã tạo ra một mẫu người nô lệ giáo điều, giáo hoàng
và tòa Thánh một cách hết sức mù quáng. Và chính giới linh mục này đã góp phần
không nhỏ trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ theo chủ trương của giáo hội, dù
trong thâm tâm có thể có nhiều vị không tin ngay cả những điều mình rao truyền
cho đám tín đồ kém hiểu biết. Tuy nhiên, không phải tất cả những linh mục được
đào tạo như trên đều cam tâm tự nguyện làm nô lệ cho Tòa Thánh suốt đời. Nhiều
vị, qua sự học hỏi cá nhân, vượt ra ngoài khuôn phép "Giáo hội dạy
rằng", đã thấy rõ thực chất của tôn giáo và Giáo hội của mình, và đã dũng
cảm thoát ra khỏi cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là Bóng Tối Dày Đặc của Ý Thức Hệ
La Mã (The Thick Darkness of Romanism), và cho ra những tác phẩm soi sáng sự
thật cho nhân loại. Chính họ là những người biết rõ bản chất của Giáo hội và
thực chất của những giáo điều, tín lý trong Gia Tô Giáo La Mã hơn ai hết, và
nhờ những tác phẩm nghiên cứu nghiêm túc, cộng với những suy tư trí thức của
ho, mà ngày nay chúng ta có thể biết rõ sự thực về mọi khía cạnh của đạo Gia
Tô. Những tác phẩm của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, của Giám Mục John Shelby
Spong, của các Linh mục Jean Mesnier, Joseph McCabe, Emmett McLoughlin, James
Kavanaugh, Andrew M. Greeley, David Rice, Leonardo Boff, Ernie Bringas, Georges
Las Vergnas Charles Davis v...v... cũng đủ để cho chúng ta biết khá tường tận
về đạo Gia Tô, khoan kể đến những tác phẩm nghiên cứu của các nhà Thần học Hans
Kung, Edwards Schillebeeckx v...v..., và của hàng trăm học giả, giáo sư đại
học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo. Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Gia
Tô cũng có những vị đóng góp cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo
cứu về khoa học và xã hội nhưng số này quả thật hiếm hoi, và Giáo hội đã hoặc
khai trừ họ, hoặc thiêu sống họ (Bruno), vì những đóng góp của họ không phù hợp
với những giáo điều Gia Tô, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không
phải là nền văn minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận. Vài tài liệu
sau đây sẽ chứng tỏ điều trên. Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về cuộc cách
mạng khoa học ở Âu châu, khởi điểm cuả nền văn minh Âu Mỹ hiện đại. Cuộc cách
mạng khoa-học ở Tây phương phát khởi từ thế kỷ thứ 16, phát triển mạnh trong
thế kỷ thứ 17, mở đầu bằng những công trình khảo cứu và tư tưởng của
NicolausCopernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600), Galileo Galilei
(1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta gọi đó là 1 cuộc cách
mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo
dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Thời gian này thường được gọi là
thời Trung Cổ và cũng còn được gọi là thời kỳ đen tối hay thời kỳ hắc ám (Dark
Ages). Chính trong khoảng thời gian này, Tây phương đã bị thống trị bởi một ý
thức hệ tôn giáo độc tôn. Những giáo điều, tín lý của Gia Tô La Mã Giáo cộng
với quyền hành của hàng giáo phẩm Gia Tô ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với
những chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư
tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh
Kinh đều bị lên án là 'tà đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng
chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng, như chúng ta đã
biết, 8 cuộc Thánh Chiến (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo
(Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai,
gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những
dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; hoặc bị treo cổ, hoặc
bị thiêu sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng
ngược với Thánh Kinh. Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn
trong giới khoa học và ngoài xã hội dân gian. Trong giới khoa học, đó là khởi
điểm của của các tiến bộ khoa học về sau. Trong xã hội đại chúng, đó là khởi
điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những
khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, điển hình là cuộc cách
mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo tôn
giáo trong quần chúng. Muốn hiểu rõ những điều này, có lẽ chúng ta nên duyệt sơ
sự diễn tiến của cuộc cách mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử Tây phương được viết trong các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên
đại học nào học về khoa học cũng phải biết. Trong thời Trung Cổ, tuy cũng có
những tiến bộ về khoa học và toán học, nhưng về nhân chủng học và vũ trụ học,
tất cả đều dựa trên Thánh Kinh, một cuốn sách tuy viết bởi nhiều người trong
nhiều thế kỷ sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thánh giá, được coi chính là
lời của Thượng Đế, do đó không thể sai lầm. Theo sự đoan quyết của các nhà thần
học Thiên Chúa Giáo, dựa trên Thánh Kinh, thì trái đất là trung tâm của vũ trụ.
Mặt trời và các hành tinh khác đều do các thiên thần quay xung quanh trái đất.
Trên trái đất là một vòm trời cứng bằng đồng thau để giữ nước ở phía trên và có
những cánh cửa mở để nước rơi xuống thành mưa theo hứng của Thượng Đế. Những
sao trên trời là những ngọn đèn mà tối tối Thượng Đế mang ra treo. Vì là những
lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh nên sự giải thích trên không thể sai lầm.
Bất cứ quan niệm nào không phù hợp với quan niệm trên đều bị coi là "tà
thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai lầm đối với tín
ngưỡng Gia-Tô" (Any other view, St. Philastrius declared "false to
the Catholic faith" ("Science and Theology" by Andrew Dickson
White)). Nhưng vào đầu thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà thiên văn người
Ba Lan, đã đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các hành
tinh quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay xung
quanh mặt trời. Copernicus không dám phổ biến khám phá này như là một sự thực
khoa học. Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản một cuốn sách là "Chuyển động
quay của các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có
ghi những khám phá của ông. Cuốn sách vừa được xuất bản thì Copernicus qua đời.
Trong phần đề Tựa của cuốn sách, bạn của Copernicus là Osiander đã khéo léo
trình bày công trình khảo cứu của Copernicus như là một giả thuyết (hypothesis)
hay là một nghịch lý (paradox). Do đó Tòa Thánh cũng làm ngơ và cho phép các
nhà thần học thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của Copernicus.
Sự chống đối trong giới khoa học tuy có nhưng chỉ ngấm ngầm, không ai dám lên
tiếng coi thuyết của Copernicus là một chân lý, vì sợ bị kết án là tà đạo. Tuy
nhiên, có một triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất", đó là
Giordano Bruno, một ông linh mục dòng Đa Minh người Ý. Bruno không những đồng ý
với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta
đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với lời
của Thượng Đế trong Thánh Kinh: "Trái đất là trung tâm của thế giới duy
nhất mà chúng ta đang sống." "Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm.
Sau cùng, vì không chịu thay đổi quan niệm để được tự do, ông bị đưa ra tòa án
xử dị giáo, kết án là có tội, tuyệt thông và bị tuyên án thiêu sống. Ông bị các
Linh mục, những người được dạy phải yêu kẻ thù, dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình.
Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi. Rồi các Linh mục, tín đồ của
Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất
từ xưa tới nay." (He believed in a plurality of worlds, in the rotation of
this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for these alone, he was
imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he would recant. Bruno
refused to stain his soul by denying what he believed to be true. He was tried,
condemned, excommunicated and sentenced to be burned. He was taken from his
cell by the priests, by those who loved their enemies, led to the place of
execution..He was chained to a stake and about his body the wood was piled.
Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and flames consumed the
greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death. ("Ingersoll
The Magnificient" By Joseph Lewis)). Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của
Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo
cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính
thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời
khẳng định thuyết của Copernicus như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết,
năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei
phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt
trời quay xung quanh trái đất, và biệt giam ông tại nhà cho đến khi ông chết
vào năm 1642. Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng
sự thật và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người
đã mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ kể
lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích (B. S. Rajneesh,
Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests and Politicians:
Mafia of the Soul, trg. 27): "Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ
kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên
văn của ông rằng: không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là
trái đất quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của
giáo hoàng Urban VIII. Khi đó ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán:
"Trước khi chết, ngươì hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với thánh
kinh. Bất cứ điều nào ngược với thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh
kinh là lời của Thượng Đế. Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi,
sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: Không thành vấn
đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như
lời Thượng Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái
đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều
không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh
mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng.
Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc khoa
học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng
phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực lâu dài." (Galileo was a
great scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had such a
beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will change it; I
will write in my book exactly what God has written in the bible - that the sun
goes around the earth. But one thing I must make clear to you: neither the sun
reads my book nor the earth reads my book. As far as reality is concerned, the
earth will continue going around the sun. And why should you insist? Because I
have every proof; I have devoted my whole life to the search, and all those who
have a scientific mind are in absolute agreement with me. Sooner or later you
will have to agree because one cannot remain against truth for long.) Tuy vậy
Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong sách, bị
kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm
1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. 359 năm sau,
ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố vụ án Galileo là
một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc
thượng thặng của toà thánh nghiên cứu trong 13 năm về vấn đề Galileo. 13 năm
dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ
mấy trăm năm nay, 13 năm tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của giáo dân đóng góp
để kiếm ra một kẽ hở hòng biện hộ cho Giáo hội trong vụ án Galilei nhưng không
thành công, để cuối cùng phải thú nhận sự sai lầm của Giáo hội. Ngoài ra, cùng
thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán học người Đức là Johannes Kepler.
Không những Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông còn đưa ra 3 định
luật về cơ học các thiên thể (celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng
chính xác sự chuyển động của các hành tinh, trong đó có trái đất, xung quanh
mặt trời. Kepler cũng bị Tòa Thánh bắt bớ giam cầm trong nhiều năm, nhưng các
khoa học gia khác như Descartes, Fermat, Newton
v...v...tiếp tục phát minh ra những khám phá mới. Rút cục, giáo hội Gia Tô chỉ
còn biết đưa ra sắc lệnh lên án các kết quả khảo cứu của Copernicus và Galilei
là sai lầm thí dụ như: "Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm và
không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm theo thần học, và
là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói rằng trái
đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là vô nghĩa, sai
lầm theo triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch với chân tín
ngưỡng" (The first proposition, that the sun is the centre and does not
revolve about the earth, is foolish, absurd, false in theology, and heretical,
because expressely contrary to the Holy Scriptures; and the second proposition,
that the earth is not the centre but revolves about the sun, is absurd, false
in philosophy, and from a theological point of view at least, opposed to the
true faith. ("The Scientific Revolution" Edited by Vern L.
Bullough.)) và cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus và Galilei.
Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo Hoàng Pius VII
thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc.
Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền
sinh sát như trước nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát triển khoa học
về sau trong mọi ngành, nhất là về vũ trụ học, nhân chủng học và di truyền học,
và phương pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng vị Carbon v...v... đã
làm sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của
Gia Tô giáo . Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên
xã hội Tây phương. Ngày nay, những người còn tin ở thuyết sáng tạo đều thuộc
loại "tin là một cách sống, chết; không cần biết, không cần hiểu",
hoặc thuộc loại, theo Linh mục Thiện Cẩm: "chỉ cần một bà lão Công giáo
nhà quê, tin rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chính Người đã tạo dựng nên thế
giới muôn loài ...cũng có dư khả năng để trả lời những thắc mắc của nhà học giả
...". Và có lẽ, nền văn minh Ki Tô là nền văn minh phát xuất từ những đầu
óc như trên. Qua những tài liệu dẫn chứng ở trên chúng ta thấy rằng không có
một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền văn
minh KiTô. Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh KiTô
là sách lược quen thuộc của GiaTô giáo để khuyên dụ những người kém hiểu biết
trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng
như bản chất của GiaTô LaMã giáo. Để có một nhận định chính xác hơn về mối
tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây
của John E. Remsburg trong cuốn "Những lời tự nhận sai sự thực"
("False Claims", trg. 16-17 ): "KiTô giáo có liên quan gì tới
nền văn minh của dân tộc này? Chắc chắn là không; và nếu không có đám mây thiên
kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên
nền văn minh của chúng ta. Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế
giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo
hội. Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như
là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong
hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội không kiểm soát
được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý.
Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do
đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội thành một đế quốc trên toàn thế giới,
mọi tiến bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức. Những Huxley và Haeckels của chúng ta
sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù
quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những bằng
chứng quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở
Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ
đó là thời đại đen tối. Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt
đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló
dạng. Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh
hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ
của chúng ta." Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng
giảm." Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ
thuận với sự ngu tối và man rợ. Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế mà
trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải
lui." ( Now did Christianity have aught to do with the civilization of
this people ? Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before
his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our
civilization. He wvould see that instead of the church having civilized the
world, the Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the
church. The very nature of Christianity--I mean orthodox Christianity - precludes
the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever
progress has been made, either in the church or outside of it, must be
attributed to causes over which she has had no control. The church claims to
have the truth, the whole truth, and nothing but the truth. Every proposed
change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and, hence, she
opposes it. Were the church to sweep to universal empire, all progress would at
once cease. Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch
of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would become our
only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence. For
centuries her power in Europe was supreme, and
even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages. Not until
Rationalism was born, not until science commenced her career, and Christianity
began to decay, did our modern civilization dawn. "For more than three
centuries, " says Lecky, "the decadence of theological influence has
been one of the most invariable signs and measures of our progress." Says
Carlyle, "Just in the ratio that knowledge increases, faith
diminishes." "The Middle Ages were more religious than ours,"
says Strauss, "in proportion to their ignorance and barbarism. Religion
and civilization accordingly occupy, not an equal, but an inverted position
regarding each other, so that with the progress of civilization, religion
retreats.") Để rọi thêm một tia sáng vào cái gọi là văn minh KiTô, chúng ta
hãy đọc tiếp đoạn sau đây của Lloyd M. Graham (Ibid., trg. 448-449) về trí tuệ
của các Thánh Kitô trong việc "mở mang đầu óc" và "văn minh
hóa" con người: "Bất cứ người nào bị thống trị bởi tư tưởng tôn giáo
đều bị đặt dưới ảnh hưởng của cái năng lực lý luận sai lầm. Đó chính là những
nhà lập giáo KiTô lầm lẫn. Ngày nay chúng ta vinh danh những kẻ không xứng đáng
về lòng dũng cảm của họ mà không ý thức được cái tội ác mà họ đã phạm phải --
sự phá hủy hoàn toàn khoa học và triết lý cổ xưa. Điều này đưa đến 1500 năm đen
tối, trong thời gian này dân KiTô không biết ngay cả quả đất tròn. Trong thời
đại đen tối, sự tối tăm có tính cách toàn diện - một ảnh hưởng khó hiểu của cái
gọi là "ánh sáng của thế giới." (GiaTô giáo vẫn tự cho là ánh sáng
của thế giới; TCN) Bây giờ chúng ta hãy so sánh những khoa học gia Hi Lạp (Tác
giả muốn nói đến Pythagoras (thuyết trái đất tròn và quay xung quanh mặt trời,
thế kỷ - 6 (6 thế kỷ trước thời đại này)), Aristarchus (thuyết mặt trời là
trung tâm vũ trụ, thế kỷ -3, mà 19 thế kỷ sau Copernicus khám phá ra),
Eratosthenes (đo chu vi trái đất, thế kỷ -3), Hipparchus (kinh tuyến và vĩ
tuyến, thế kỷ -2), Democritus và Leucippus (thuyết nguyên tử của vật chất, thế
kỷ 5) với các Thánh KiTô. Đối với vài khoa học gia còn sống sót người ta nói
như sau: "cái tên điên này muốn đảo ngược cả hệ thống thiên văn, nhưng
Thánh kinh thiêng liêng dạy chúng ta rằng Joshua ra lệnh cho mặt trời đứng yên
lại chứ không phải là trái đất." - và 1300 năm sau một giáo hoàng cũng ra
sắc lệnh với cùng ý như vậy. Một luận cứ nổi tiếng khác là "trong ngày
phán xét những người ở phía bên kia của trái đất không thể thấy được Chúa từ
trên không xuống." Về sự chuyển động của trái đất, Thánh Augustine (cha đẻ
của nền thần học GiaTô và được GiaTô giáo tôn sùng coi như là có trí tuệ siêu
việt) nói như sau: "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của
trái đất, vì Thánh kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong
các hậu duệ của Adam" (Như vậy là Thánh kinh không biết tới dân Việt Nam và
lẽ dĩ nhiên không làm gì có chuyện cứu rỗi dân Việt Nam. TCN) Và linh mục
Incholer nói như sau: "Quan miệm về sự chuyển động của trái đất là quan
niệm tồi tệ nhất, nguy hại nhất, xúc phạm nhất trong những quan niệm dị giáo;
sự bất động của trái đất là điều thiêng liêng gấp ba lần." Và Lactantius
kết luận: "Không thể có chuyện con người tin một cách vô lý đến độ cho
rằng mùa màng và cây cỏ ở phía bên kia của trái đất lại mọc chổng đầu xuống và
con người lại có chân cao hơn đầu." Làm sao chúng ta có thể áp dụng những
lời trên vào con người đã thốt ra những lời đó. Ngày nay, chúng ta biết họ sai
lầm về khoa học, nhưng chúng ta vẫn không biết họ sai lầm về thần học."
(Anyone dominated by religious thought is under the influence of a
reason-perverting power. Such were Christianity's Confounding Fathers. Today we
honor these misbegotten for their courage without realizing the crime they
committed--the complete destruction of ancient science and philosophy. This
resulted in fifteen hundred years of darkness, in which the Christian people
did not even know the earth is round. In the Dark Ages the 'blackout" was
complete--a curious effect for "the light of the world." Now let us
compare Greek scientists with Christian saints. Against some scientists still
surviving one had this to say: " this fool wishes to reverse the entire
system of astronomy; but sacred scripture tells us that Joshua commanded the
sun to stand still and not the earth"--and some thirteen hundred years
later a pope issued a bull to the same effect. Another famous argument was that
"in the day of judgment men on the other side of a globe could not see the
Lord descending through the air." Concerning the earth's motion, St. Augustine had this to
say: "It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of
the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of
Adam." And Father Inchofer: "The opinion of the earth's motion is of
all heresies the most abominable, the most pernicious, the most scandalous; the
immobility of the earth is thrice sacred." And Lactantius concluded,
"It is impossible that men can be so absurd as to believe that the crops
and trees on the other side of the earth hang downward and that men have their
feet higher than their heads." How peculiarly applicable are these words
to those who uttered them. We know now these men were wrong scientifically, but
we still do not know they were wrong theologically.) Một trong những quyền căn
bản của con người ở trong các xứ văn minh tiến bộ là quyền tự do tín ngưỡng, tự
do ngôn luận, tự do tư tưởng v...v... Sau đây tôi sẽ luận về giáo hội và tự do
của con người. Gần đây, ở các nước còn nghèo khổ, KiTô giáo nói chung (GiaTô
& Tin Lành) đã khuyến dụ dân chúng theo đạo với luận cứ xuyên tạc sự thật:
"Hãy nhìn vào các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, kinh tế mở mang, dân chúng
sống sung sướng. Đó là những nước theo KiTô giáo và KiTô giáo là nguyên nhân
chính của sự giàu sang và tự do dân chủ." Đây là một luận điệu nằm trong
sách lược lừa dối những người kém hiểu biết. Sự thực là hiện nay hơn 70% dân
GiaTô là thuộc các nước ở Nam Mỹ, Phi Châu, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân. Dưới sự
chỉ đạo tinh thần và vật chất của GiaTô giáo, có nước nào giàu mạnh đâu. Phi
Luật Tân là nước hầu như toàn tòng GiaTô giáo từ nhiều thế kỷ, nay Phi Luật Tân
giàu sang như thế nào mà phải xuất cảng hơn 400 ngàn người đi làm đầy tớ ở nước
ngoài, và tình trạng giáo dục, kinh tế có hơn gì Việt Nam ngày nay không? Trung
Quốc, Nhật Bản, Singapore, mở mang tiến bộ như thế
nào, nhưng đâu có phải là các nước theo KiTô giáo. Tại sao ở các nước văn minh
tiến bộ Âu Mỹ tình trạng bỏ đạo càng ngày càng gia tăng. Thống kê mới nhất
(ngày 20 tháng 7 năm 1996) của Vatican cho biết số người vào trường dòng học
làm Linh Mục gia tăng trong các nước nghèo khổ (một nghề tương đối dễ sống trên
sự ngu tối của con người) và kỹ nghệ kém mở mang trong khi giảm nhiều ở Âu Mỹ.
(The statistics on seminary enrollment support a longtime trend: The
demographic center of the faith is shifting to poorer and less industrialized
nations.) Sự suy giảm ở Mỹ (nước giàu nhất, văn minh nhất, tự do nhất) rất trầm
trọng: số tu sinh giảm từ 14,365 xuống còn có 5.692 (giảm hơn 60%) (The drop in
North American was even greater: from 14,365 to 5,692). Một công cuộc nghiên
cứu khác của Linh Mục dòng Dominic, David Rice, cho biết: Trong 20 năm qua có
100,000 linh mục rời bỏ giáo hội GiaTô LaMã - cứ 2 giờ đồng hồ lại có một linh
mục bỏ giáo hội ra đi (100,000 Roman Catholic priests have walked out in the
last twenty years - more than one in every two hours). Một công cuộc nghiên cứu
trong 6 năm của hai nhà xã hội học, giáo sư Richard Schoenherr và Lawrence
Young, đại học Wisconsin - Madison đưa ra kết luận: "Cho tới năm
2005, số linh mục ở Mỹ sẽ giảm 40%, từ 35.000 xuống còn 21.000. Vậy chúng ta
không lấy làm lạ khi giáo hội đã tập trung sự tuyển mộ linh mục và giáo dân ở
trong các nước nghèo vì ở các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, dân trí đã mở mang,
không còn tin vào những lời giả dối đánh lạc dư luận nữa. Tôi sẽ trở lại vấn đề
này khi bàn về tình trạng hiện thời của Ki Tô Giáo trong thế giới Âu, Mỹ. Và,
cũng thật là dễ hiểu khi chúng ta thấy trong những nước nghèo khổ, người dân
sống trong thiếu thốn rất dễ bị lường gạt bởi những bả vật chất nhỏ nhoi và
những hứa hẹn tinh thần huyền hoặc. 6. 2. Giáo hội và tự do của con người. Lịch
sử chứng tỏ rằng, cho đến ngày nay, chưa bao giờ giáo hội GiaTô cổ võ tự do tôn
giáo. Theo truyền thống của giáo hội mẹ, các giáo hội con cũng đi vào con đường
chuyên chế tôn giáo: Pavelich ở Croatia, Franco ở Tây Ba Nha, Ngô Đình Diệm ở
Nam Việt Nam, Marcos ở Phi Luật Tân v...v...tất cả đều chủ trương độc tôn và
tìm cách tiêu diệt các tôn giáo khác. Hiện nay, GiaTô giáo và Chính Thống giáo
còn đang giết nhau ở Bosnia, GiaTô Giáo và Tin Lành cũng đang giết nhau ở Bắc
Ái Nhĩ Lan, GiaTô và Tin Lành đang tranh nhau ảnh hưởng ở các nước nghèo khổ.
Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi là giữa GiaTô và Tin Lành, tôn giáo nào
hơn, Robert G. Ingersoll đã trả lời: "Tin Lành hơn vì ít Gia Tô hơn, nhưng
sự khác biệt giữa Gia Tô và Tin Lành chỉ như sự khác biệt giữa một con cá sấu
lớn và một con cá sấu nhỏ" (Protestantism is better than Catholicism
because there is less of it. But the difference between Catholicism and
Protestantism is as much as between an alligator and a crocodile). Ở nơi nào
GiaTô giáo ở thế yếu hoặc thiểu số thì giáo hội đòi cho được tự do tôn giáo,
khi nào ở thế mạnh hoặc đa số thì không bao giờ tôn trọng tự do tôn giáo. Kinh
nghiệm Việt Nam cho thấy, vào những thế kỷ 17, 18, 19, trong khi ở Âu Châu
GiaTô giáo bắt giữ, tra tấn, và thiêu sống hàng trăm ngàn người mà họ kết tội
là "dị giáo", nghĩa là những người không tin và không chấp nhận quyền
lực của Giáo hoàng, thì ở Việt Nam họ lại đòi tự do tôn giáo cho những tín đồ
GiaTô Việt Nam phản bội quốc gia qua sự liên kết với ngoại nhân để chống chính
quyền, và lấy cớ bị đàn áp để thúc đẩy thực dân Pháp xâm chiếm đất nước Việt
Nam. Chắc họ nghĩ rằng theo đạo Chúa thì có quyền đi giết người không cùng tín
ngưỡng, còn những người khác tín ngưỡng thì không có quyền đụng đến con của
Chúa, dù rằng trong phần lớn các cuộc gọi là cấm đạo, nguyên nhân không phải là
lý do tôn giáo. Hiện nay, ngay trong nội bộ, giáo hội GiaTô cũng không tôn
trọng nhân quyền và tự do tư tưởng. Giáo hội dành quyền diễn giảng Thánh Kinh
và không chấp nhận bất cứ sự bất đồng ý kiến nào, dù lịch sư đã chứng minh giáo
hội đã nhiều lần sai lầm trong quá khứ. Các nhà Thần học nổi tiếng như Hans
Kung, Leonardo Boff, Charles Curran v...v... vì không đồng ý với giáo điều của
Vatican nên đều bị Vatican đưa ra những biện pháp trừng phạt tinh thần như cấm
dạy học, cấm viết sách v...v... Lẽ dĩ nhiên Việt Nam không có nhà Thần học nào
nổi danh và "trưởng nữ" của giáo hội mẹ (ngày xưa là Pháp) đã nổi
tiếng là ngoan ngoãn dễ bảo, và không bao giờ cần đến quyền tự do của con người,
cho nên vẫn cho rằng Giáo hội GiaTô là thành trì bảo vệ tự do. Có lẽ chúng ta
cũng nên đọc đoạn sau đây của John Remsburg (Ibid., trg. 24), để có một hiểu
biết tổng quát về cái gọi là quan niệm tự do của giáo hội GiaTô: "Giáo hội
tự nhận là hội bảo vệ tự do tôn giáo và dân sự. Thực ra là tự do của con người
chưa bao giờ có một kẻ thù nào ghê gớm hơn. Nơi nào mà KiTô là thiểu số thì họ
đòi cho được tự do tôn giáo, nơi nào đa số thì họ không bao giờ chấp nhận tự do
tôn giáo. Mười ngàn lời tán tụng đã tặng cho những nhà lập Thanh Giáo (Một tông
phái KiTô) ở New England, như họ tự nhận, là
đã thiết lập tự do tôn giáo ở nước này. Nhưng quan niệm về tự do của Thanh giáo
là như thế nào? Họ ủng hộ loại tự do nào? Tự do chỉ được là một tín đồ Thanh
giáo! Chỉ đơn giản như vậy thôi. Rồi nữa, những ông tòa xử dị giáo Tây Ba Nha
cũng ủng hộ tự do tôn giáo - cái tự do chỉ được là một tín đồ GiaTô ngoan
đạo... Sự thật là nếu anh thấy bất cứ ở đâu một tông phái của giáo hội KiTô,
tôi không cần biết nó mang cái tên gì - GiaTô hay Tin Lành, Luther hay Tân
giáo, Trưởng lão hay Giám Lý - anh sẽ thấy đó là một kẻ thù của tự do. Trái đất
của chúng ta đã bị bao phủ bởi tro bụi của nhiều triệu người bị giết, giết bởi
giáo hội, chỉ vì họ dám có những quan điểm không được chính thống. "Nhưng
bây giờ giáo hội không còn giết nữa," hình như tôi nghe nhà bảo vệ tín lý
KiTô nói. Không, một con hổ yếu sắp chết càng ngày càng bớt dữ đi. Bây giờ Giáo
hội không giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu
sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu
của giáo hội, và bây giờ giáo hội chỉ còn dùng được hai vũ khí, thù hận và vu
khống." (The Church claims to be the guardian of civil and religious
liberty. Yet human liberty has never had a deadlier foe. If a Christian
minority has pleaded for religious liberty, a Christian majority never failed
to deny it. Ten thousand eulogies have been bestowed upon the Puritan Fathers
of New England, for having, as it is claimed, established religious liberty in this
country. But what was the Puritan conception of religious liberty? What liberty
did they advocate? The liberty to be a Puritan! Simply this and nothing more.
So, too, did the Spanish Inquisitors advocate religious liberty - the liberty
to be a good Catholic. The fact is that wherever you find a fragment of the
Christian Church, I care not what name it bears - Catholic, or Protestant,
Lutheran or Episcopal, Presbyterian or Methodist - you find an enemy to
liberty. Our earth is covered with the dust of murdered millions, murdered by
the church, and for no other crime than having dared to entertain opinions that
were not orthodox. "But the church does not kill now," methinks I
hear the Christian apologist exclaim. No; a tiger weakened by the pangs of
death grows less and less ferocious. The church does not kill now because it
does not have the power to kill. The fagot and the sword have been wrested from
her bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now.)
Với chính sách hủy diệt văn hóa của các hệ thống tín ngưỡng khác, với những
cuộc Thánh chiến, với những tòa hình án xử dị giáo, với sự bách hại người Do
Thái, chúng ta có thể tin được chăng những lời tự nhận của Giáo hội Gia Tô là
tôn trọng tự do và nhân quyền của con người. Tôi cho rằng chỉ có những tín đồ
đầu óc mù mịt mới có thể tin được những lời tuyên truyền sai sự thực như vậy.
6.3. Quan Niệm về Thánh Nhân, Từ Thiện... Trong Gia Tô La Mã Giáo Trong Gia Tô
La Mã Giáo, Thánh là những người có công với Giáo hội trong việc củng cố hoặc
truyền bá đức tin Gia Tô, chứ hầu hết không phải là những người đạo đức, thánh
thiện như chúng ta thường tưởng. Chúng ta đã biết, Giáo hoàng John Paul II tôn
vinh và sửa soạn phong Thánh cho Hồng Y Stepinac, người đã hợp tác chặt chẽ với
Đức Quốc Xã và chế độ Gia Tô độc tài Croatia giết hại trên 600.000 dân Serb, Do
Thái, và Gypsies ở Bosnia trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, và đã bị kết án tù, coi
như một tội phạm chiến tranh. Chúng ta cũng đã biết, trong số 117 người được
phong Thánh ở Việt Nam, có một số giáo sĩ ngoại quốc thực dân phạm tội khích
động hoặc dính líu vào những cuộc nội loạn ở Việt Nam, như sẽ được trình bày
trong chương tới, và một số người bản địa làm Việt Gian, hợp tác với Thực Dân
Pháp để đưa Việt Nam vào vòng nô lệ. Nhưng chúng ta không biết rằng, ngay
Abraham, Thánh Tổ Phụ của Gia Tô Giáo, cũng là một người loạn luân, lấy em gái
làm vợ, hai lần dâng vợ cho các Vua Ai Cập để đổi lấy của cải, tiền bạc, gia
súc v...v..., định ra tay giết đúa con trai "duy nhất" để tế Thượng
đế, tỏ lòng trung thành với Thượng đế (xin đọc bài viết về Thánh Abraham trong
phần Phụ Lục). Chuyện phong Thánh là chuyện nội bộ của Giáo hội và chỉ có giá
trị đối với các tín đồ Gia Tô không hiểu thế nào là Thánh cả, chứ đối với những
người ngoại đạo thì đó chỉ là một thủ đoạn của Giáo hội để khai thác lòng mê
tín của tín đồ. Tôi không muốn đi vào những chuyện thuộc nội bộ của Giáo hội,
cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài lời "Thánh phán" nổi danh trong
Gia Tô La Mã Giáo để độc giả thấy rõ đầu óc của họ, những người giáo dân thường
tôn thờ là Thánh . 1. Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536) (Người sáng lập dòng
Tên: Xin đọc bài về Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e trong phần phụ lục): "Chúng
ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm
trong Giáo hội quyết định như vậy." (We should always be disposed to
believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the
Church so decides.) 2. Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền Thần học Gia
Tô và được Gia Tô Giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt",
tác giả cuốn Đô Thị Thiên Chúa (City of God)): a) "Nếu những đứa trẻ sơ
sinh vô tội, không phải vì chúng thiếu ý chí làm hại mà chỉ vì chúng không đủ
sức thôi." (If babies are innocent, it is not for lack of will to do harm
but for lack of strength.) b) "Những kẻ thù như vậy (những người theo phái
Tự Ngộ) , ta thật ghét chúng thậm tệ: Ôi, hãy giết chúng đi bằng gươm của
ngươi." (The enemies thereof, I hate vehemently: O that thou wouldest slay
them with thy two-edged sword.) c) "Không thể nào có chuyện có người ở
phía bên kia của trái đất (không tin là trái đất có hình cầu), vì Thánh Kinh
không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam."
It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth,
since no such race is recorded bt Scripture among the descendants of Adam.) d)
"Nếu dẹp bỏ hết gái điếm đi, thế giới sẽ bị rối loạn bởi sự ham muốn"
(Do away with harlots, and the world will be convulsed with lust.) e)
"Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thượng đế.., nhưng
khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thượng đế, nhưng đối
với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thượng đế." (The
woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is
referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but
as regards the man alone, he is the image of God.) 3. Thánh Bernard
(1090-1153): "Những lính chiến Ki Tô "phải tiến hành cuộc chiến tranh
của Chúa Ki Tô mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi
họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh
quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; nếu họ chết, đó là
cho sự lợi lộc của chính họ." (Christian soldiers "are to wage the
war of Christ their master without fearing that they sin in killing their
enemies or of being lost if they are themselves killed, since when they give or
receive the death blow, they are guilty of no crime, but all is to their glory.
If they kill, it is to the profit of Christ, if they die, it is to their
own.") 4. Thánh Fulgentius (467-533): "Những bào thai chết trong lòng
mẹ, hoặc những trẻ mới sinh rs đã chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội
...phải chịu hình phạt đau đớn trong ngọn lửa không bao giờ tắt." (Little
children who have began to live in their mother's womb and have there died, or
who, having just been born, have passed away from the world without the
sacrament of holy baptism...must be punished by the eternal tortures of undying
fire.) 5. Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có
con nào gây hại như một người đàn bà" (Among savage beasts none is found
so harmful as a woman) 6. Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy
một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con
người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì
của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human
being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.) Trên
đây là vài tư tưởng "vĩ đại" của vài vị Thánh "vĩ đại"
trong Gia Tô La Mã Giáo. Có lẽ chúng ta cũng nên biết rằng việc phong Thánh bừa
bãi của Giáo hoàng John Paul II đã gây nên nhiều phản ứng bất lợi cho chính
Giáo hội, đến nỗi Hồng Y Silvio Oddi cũng phải than phiền là: "Vatican đã
trở thành một "Xưởng chế tạo Thánh"" (The Vatican has
become a saint factory.) Điều hiển nhiên là 117 vị được phong Thánh ở Việt Nam cũng không nằm ngoài kế hoạch chế tạo Thánh
cho những mục đích chính trị của Vatican. Một trong những sách lược
tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân
trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân
giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội GiaTô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào
nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo
hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội
tôn là Thánh Mẫu (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận,
làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ GiaTô đều như Mẹ
Teresa cả. Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa
tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính
của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải
công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của GiaTô giáo trong những
thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine,
người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn
để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: "The Rise and Fall of
The Roman Church", trg. 36: "True, Contanstine had used every one of
these means to propagate Christianity. He even bought up whole towns and cities
to ensure they accepted the new belief." Và từ đó cho đến ngày nay, của
cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của GiaTô giáo
để thu nhặt tín đồ. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai
đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã
là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Gia Tô Giáo.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Cha Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ
thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện
bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo
để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất
hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này
cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Cha được sự viện trợ của các cơ
quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người
ngoài khi bằng lòng theo đạo. Tôi không nói là các việc từ thiện của GiaTô giáo
không có ích lợi gì, chúng góp phần rất nhiều để làm vơi bớt sự khó khăn mà con
người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và
phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Trở lại trường hợp của Mẹ Teresa.
Tại sao lại xảy ra phong trào bài Ki Tô Giáo mạnh mẽ ở Ấn Độ? Vì cả Tin Lành
lẫn Ca Tô Giáo đều vẫn tiếp tục lợi dụng sự nghèo khổ của đám dân thấp kém
trong xã hội, tiếp tục dùng những thủ đoạn phi tôn giáo như bài bác Ấn Độ giáo,
dùng bả vật chất để truyền đạo, và nhất là xử dụng vũ khí hữu hiệu nhất của Ca
Tô Giáo: bình phong “từ thiện” đi kèm với phương tiện truyền thông để tô hồng
quảng cáo cho Ca Tô Giáo trong khi thực chất của việc từ thiện là để thu nhặt
tín đồ và khai thác lòng nhân từ của quần chúng để vơ vét tiền bạc cho Vatican.
Trường hợp điển hình là việc thành lập dòng “Thừa sai bác ái” của bà Teresa mà
cái tên của nó đã nói lên thực chất sử dụng “bác ái” làm một vũ khí truyền đạo.
Qua phương tiện truyền thông với những hình ảnh làm mủi lòng quần chúng, bà
Teresa đã được thổi phồng lên như một thánh nhân, thực hiện chủ trương bác ái
của giáo hội. Kết quả là tiền vào như nước nhưng chỉ có một phần nhỏ được chi
dùng cho các hoạt động mang danh “từ thiện”. Những người đóng góp tin tưởng
rằng tiền của mình đóng góp sẽ được dùng trong những công tác từ thiện vị tha
của giáo hội. Nhưng sự thật đằng sau tổ chức “Thừa sai bác ái” để làm công việc
“từ thiện” này ra sao, và thực chất con người của bà Teresa ra sao, ngày nay
chúng ta đã biết rõ. Trong thế giới ngày nay, khó ai có thể che dấu được những
việc mờ ám, nhất là khi người đó là một nhân vật nổi tiếng như bà Teresa. Muốn
cho người khác không biết thì đừng có làm. Bà Teresa không ý thức được chân lý
này nên kết quả là người ta đã phanh phui ra những chuyện động trời sau bức màn
“Thừa sai bác ái” (sic) của bà Teresa. Một vài tài liệu nghiên cứu sau đây sẽ
cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David
Gates có điểm cuốn sách Lập Trường Thừa Sai: Mẹ Teresa Trong Lý Thuyết Và Thực
Hành (The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and in Practice) của Christopher
Hitchens viết về bà Teresa. Theo Hitchens thì "Mẹ Teresa là một kẻ
"mị dân" chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực
thế gian.", thân thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo
Charles Keating ở Ngân Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết
cho ông Tòa Lance Ito trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với
đầy đủ lý lẽ , ông Phó Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách
nào mà Keating đã ăn cắp món tiền mà hắn đã biếu cho Mẹ, và đề nghị Mẹ hoàn trả
lại số tiền đó cho các "sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý"; Mẹ đã không
hề hồi âm. Hitchens cũng ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh
viện tốt nhất và đắt tiền nhất ở Tây phương." Hitchens lý luận rằng
"Mẹ làm công việc từ thiện không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong
một ngày nào đó được kể như một vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo
hội." (Hitchens' Mother Teresa is an anti abortion "demagogue"
and a "servant of earthly powers," cozying up to such a slime as S
& L (Savings & Loans) swindler Charles Keating, on whose behalf she
wrote to Judge Lance Ito during his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a
deputy D.A. explained to her how Keating stole the money he'd donated and
suggested she return it to "its rightful owners"; she never answered.
...Hitchens notes, she herself has "checked into some of the finest and
costliest clinics and hospitals in the West." She does charitable work, he
argues, "not for its own sake but...so that she may one day be counted as
the beatific founder of a new order and discipline within the Church
itself.") Ngoài ra, một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba, đã
sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ
thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ
thiện" của bà Teresa. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm được viết thành
cuốn Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên (Mother Teresa: Beyond The
Image), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách
dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc
từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan
sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng vấn những nhân vật có thẩm quyền như
bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện
nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái"
(Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as
many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads
of charities, volunteers and former Missionaries of Charity). Sau đây là vài
điểm chính mà tác giả, Anne Sebba, đã khám phá ra: * Về tiểu sử, bà Teresa
không có gì đặc biệt, chúng ta thấy cùng một niềm tin tôn giáo đã hướng dẫn bà
trong mọi việc. * Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính
lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền
đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng
mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ
về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm
qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không
phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa
mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm
"việc thiện", chứng tỏ "lòng nhân từ" của Bà. Bà không phải
là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề
ngoài. (Trong cái niềm tin của Bà Teresa, bà cố ý lờ đi chuyện những đau khổ,
bất hạnh của con người cũng là do Chúa tạo ra. Cũng như gần đây GH John Paul II
tuyên bố: Mẹ Teresa là quà của Thượng đế cho những người nghèo khổ (gift of God
for the poor) nhưng Ngài không hề nói tới những người nghèo khổ là quà của Thượng
đế cho ai? Chắc là cho Bà Teresa để Bà có cơ hội làm việc thiện vinh danh Chúa.
Một mặt Chúa tạo ra những đau khổ, một mặt khác Chúa nhờ bà Teresa, qua dòng
"Thừa sai bác ái", quảng bá lòng thương của Chúa qua những việc từ
thiện chỉ có tính cách tượng trưng. Ấy thế mà vẫn có nhiều người ca tụng lòng
yêu thương của Chúa đối với nhân loại, và lòng "bác ái" của bà
Teresa. TCN) Tác giả Anne Sebba còn đưa ra nhiều hình ảnh của bà Teresa, trái
ngược hẳn với những hình ảnh đã được bộ máy tuyên truyền của giáo hội trên thế
giới đưa ra, thí dụ như: "đạo đức giả, ve vãn giới truyền thông, thân cận
với một số lãnh tụ độc tài trên thế giới, bất minh về vấn đề tiền bạc, nhận
tiền thụt két nhà băng của một tên lừa đảo (Charles Keating) và khi Tòa án viết
thơ khuyên Bà nên trả lại số tiền đó thì lờ đi không trả lời, dùng tiền của
thiên hạ đổ vào các tu viện thay vì nhà thương và để cho các cơ sở từ thiện rất
thiếu thốn, mù quáng theo lệnh của Vatican chống mọi kế hoạch hóa gia đình
v..v.." Đó là thực chất những công việc "từ thiện" của bà
Teresa, người mà các tín đồ Ca Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một
Thánh nhân. Ngày nay, đã có thêm nhiều tài liệu về bà Teresa do chính những
người trước đây cộng tác với bà, như các sơ (soeur, sister), viết ra. Họ không
phải là người ngoài mà là chứng nhân trong cái gọi là dòng tu "Thừa sai
bác ái" của bà Teresa. Hình ảnh của bà Teresa mà họ đưa ra không thánh
thiện như giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ mà thực ra là : đạo đức giả,
lừa bịp, gian dối, tàn nhẫn, cuồng tín, lạc hậu v..v... như chúng ta sẽ thấy
trong vài tài liệu sau đây. Để quảng cáo kiếm tiền, Giáo hội đưa ra hình ảnh bà
Teresa đang bồng ru một em bé Ấn độ ốm yếu, làm mủi lòng nhiều người. Giáo hội
cũng quảng cáo là dòng "Thừa sai bác ái" của bà Teresa đã thiết lập
những "cơ sở từ thiện" trong hơn 25 quốc gia với những nhà thương,
viện mồ côi, trường học v..v.. Việt Nam, có lẽ đã biết rõ thực chất những
"hoạt động từ thiện" của bà Teresa nên đã từ chối, không chấp nhận đề
nghị lập viện mồ côi tại Việt Nam của bà Teresa ngay khi Mỹ còn đang cấm vận.
Đây là một quyết định khôn ngoan của chính quyền, không rơi vào cái bẫy
"từ thiện để kiếm thêm linh hồn cho Chúa" của thế lực đen quốc tế. Ai
cũng biết, công việc "từ thiện" của bà Teresa tập trung ở Calcutta,
Ấn độ, và quảng cáo rầm rộ nhất cũng là những hoạt động của dòng "thừa sai
bác ái" ở Ấn độ. Những tài liệu của Christopher Hitchens và Anne Sebba ở
trên đã cho chúng ta thấy phần nào mặt trái của các cơ sở "từ thiện"
đó. Sau khi bà Teresa chết thì có một số “sơ” trước đây đã cộng tác với bà
trong tổ chức "Thừa sai bác ái" đã tiết lộ nhiều chi tiết thuộc loại
động trời. Thí dụ, sơ Susan Shields đã viết trong tờ Free Inquiry, số mùa đông
1998, tiết lộ rằng: Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về
số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà
Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo
của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để
trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng
ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa
chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các
em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai
bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì
trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho
công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. (Judith Hayes trong The
Happy Heretic, p. 66-67) Trước những tiết lộ trên của sơ Shields, một ký giả
viết cho Knight Ridder, Clark Morphew, đã viết bài biện bạch cho bà Teresa,
nhưng chính những lý luận biện bạch này lại càng làm sáng tỏ thực chất công
cuộc "từ thiện" của bà Teresa. Morphew viết rằng bà Teresa tin rằng
sự đau khổ của con người là một điều tốt, và ngừa thai bao giờ cũng sai.
(..among Teresa's beliefs were the ideas that suffering is good and ..birth
control is always wrong.); chủ tâm của bà Teresa không phải là xóa nghèo và nạn
mù chữ. (wiping out poverty and illiteracy was not Teresa's focus). Morphew
cũng còn viết là người ta sẽ tiếp tục chỉ trích bà Teresa cho đến khi có
"một sự cải tiến sâu rộng" (criticism of Teresa will continue until
"some serious reform comes about), và rằng sơ Nirmala, người thay thế bà
Teresa điều hành dòng "thừa sai bác ái" có thể có những thay đổi rộng
lớn. (Since Sister Nirmala had taken over the reigns as Teresa's successor,
"grand changes could happen") Bình luận về những lời biện bạch trên
của Clark Morphew, nữ học giả Judith Hayes đã đặt ra vài câu hỏi: Nếu những nhà
thương của bà Teresa được tài trợ rộng rãi mà được điều hành một cách trôi chảy
không có vấn đề gì, lương thiện và bác ái, thì tại sao lại cần phải có bất cứ
sự cải tiến sâu rộng nào? và tại sao lại cần những thay đổi rộng lớn nếu không
có sự sai lầm trong đó? Tác giả Judith Hayes còn phê phán: Tôi chưa từng nghe
thấy một người nào có lòng bác ái mà nghĩ rằng sự đau khổ của con người là một
điều tốt. Bác ái là đức tính tối thiểu của một người mà chúng ta cho là xứng
đáng được phong Thánh. Nếu những điều Morphew viết là đúng thì chúng ta phải
đặt bà Teresa đâu đó giữa sự tàn ác và ngu đần, mà hay thay, trong tự điển từ
Thánh (Saint) nằm giữa 2 từ Tàn Ác (Sadistic) và Ngu Đần (Stupid). Tác giả đã
chơi chữ ở đây: (If all of that is true, it places Teresa somewhere between
"sadistic" and "stupid" which, interestingly, is where
"saint" appears in the dictionary) Để hiểu rõ hơn con người của bà
Teresa, sau đây là một số chi tiết trong cuốn The Missionary Position của
Christopher Hitchens. Chúng ta hãy duyệt qua một số tư tưởng, quan niệm vĩ đại
của Thánh Teresa. Trong khi ngồi trên hàng triệu đô-la ở trong các ngân hàng,
bà Teresa bày tỏ quan niệm như sau: "Tôi nghĩ rằng thật là quá đẹp cho
những người nghèo chấp nhận số phận của họ.. thế giới đang được phục vụ nhiều
bởi sự đau khổ của những người nghèo" (Hitchens, p.11: Mother Teresa said:
I think it is very beautiful for the poor to accept their lot...the world is
being much helped by the suffering of the poor people). Tôi nghĩ đây là một
quan niệm thần học tệ hại cần phải lên án trong một thế giới mà tất cả nỗ lực
tập trung vào việc giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân. Đây là quan
niệm, đúng hơn là sách lược ru ngủ của các thừa sai, tuyên dương sự nghèo khổ bảo
đó là ý của Chúa. Tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn đề. 1. Khi được
hỏi là bà có đồng ý là ở Ấn Độ có quá nhiều trẻ con hay không, bà Teresa đã trả
lời: "Tôi không đồng ý vì Thiên Chúa bao giờ cũng cung cấp đầy đủ"
(Ibid., p. 30: I do not agree because God always provides). Câu trả lời là một
câu mạ lỵ những người có đầu óc và có tình thương thực sự. Thật vậy sao? Nếu
thực sự là có một Thiên Chúa có thể cung cấp đầy đủ cho tất cả thì thực trạng
thế giới đã chứng tỏ là Thiên Chúa không muốn làm như vậy. Bà Teresa không hề
biết là trên thế giới mỗi ngày có khoảng 40 ngàn trẻ con dưới 5 tuổi chết đói.
Nếu Thiên Chúa cung cấp đầy đủ cho tất cả thì tại sao ngay trên đất Ấn Độ mà bà
làm công việc "từ thiện" cũng có 423 triệu người sống trong sự tuyệt
đối nghèo khổ (living in absolute poverty), 73 triệu trẻ em dưới 5 tuổi thiếu
dinh dưỡng, và 350 triệu mù chữ? Lẽ dĩ nhiên, đối với bà thì Thiên Chúa quả là
đã cung cấp đầy đủ, quá đầy đủ, vì bà ngồi trên đống tiền của thiên hạ đóng góp
để bà làm việc "từ thiện". 2. Bà Teresa huấn luyện những sơ dưới
quyền bà hỏi những bệnh nhân sắp chết là có muốn một "vé lên thiên
đường" hay không? Nếu họ trả lời muốn thì sẽ có ngay một lễ rửa tội cấp
bách để kéo họ vào trong Ca Tô Giáo. Nếu chúng ta biết đến lời tuyên bố của
giáo hoàng John Paul II là không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây thì
thiên đường của bà Teresa đúng là một thiên đường mù. Đó không phải là thiên
đường của những người mù mắt mà là của những người mù quáng tin vào một điều mà
ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ. 3. Có một bệnh nhân bị
bệnh ung thư đang ở thời kỳ cuối, đau quằn quại, sắp chết, nhưng bà Teresa lại
nhất định không cho họ thuốc đủ mạnh (tại sao??). Bà đến an ủi họ: "Con
nên nghĩ rằng con cũng đang đau đớn như Chúa Giê-su đang bị đóng đinh trên thập
giá; Chúa hẳn là đang hôn con đó" Bệnh nhân đó trả lời: "Vậy xin mẹ
nói với ông ta là đừng hôn con nữa." ("You are suffering like Christ
on the cross. So Jesus must be kissing you." To which the patient replied,
"Then please tell him to stop kissing me"). Đối với tôi, trong vụ
này, không những bà Teresa là một con người cuồng tín mà còn là ngu đần, tàn
nhẫn, và sống xa thực tế. Bà thừa biết rằng không một người nào trên thế gian
này lại muốn chịu khổ hình đau đớn như Chúa Giê-su trên thập giá và dù Giê-su
có đang hôn thật đi chăng nữa thì cũng không làm cho bệnh nhân bớt đau hay khỏi
bệnh. Bởi vậy cho nên bệnh nhân đã từ chối cái hôn của Giê-su. Nhưng hành động
như trên của bà thực ra chỉ là một thủ đoạn ru ngủ lừa dối và hết sức đạo đức
giả. Vì khi chính bà đau ốm thì bà lại vào những nhà thương Tây phương đắt tiền
nhất để chữa trị. Năm 1989 bà đã được gắn một máy để cho tim đập điều hòa
(pacemaker). Năm 1993 bà đã được thông một mạch máu bị tắc. Tại sao bà không
chịu đựng những sự bất thường đau đớn trong cơ thể bà như là Chúa Giê-su chịu
đựng trên thập giá. Tại sao bà không nghĩ rằng những khi bà bị bệnh đó chính là
Chúa đang hôn bà? Tại sao bà phải vào những nhà thương đắt tiền nhất, có nhiều
phương tiện tối tân nhất, để chữa trị cho bà, trong khi bà không chịu chữa trị
đúng mức cho những bệnh nhân trong những nhà thương "từ thiện" của
chính bà? Nếu bà muốn thì bà sẽ có đủ phương tiện trong các nhà thương "từ
thiện" của bà, vì nhiều triệu đô la do những người hảo tâm đóng góp để cho
bà làm việc "từ thiện" còn nằm ì trong các ngân hàng. Chúng ta nên
nhớ, theo định chế của Ca Tô Giáo Rô Ma thì những chương mục này thuộc tài sản
của Vatican.
Chúng ta cũng đừng quên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã đệ đơn lên chính
quyền Việt Nam đòi lại những cơ sở của Ca Tô Giáo ở Việt Nam (phần lớn là do
toa rập với thực dân Pháp, chiếm đất Chùa trong thời đô hộ của thực dân Pháp,
trong đó có đất của nhà thờ lớn Hà Nội, đất của nhà thờ Đức Bà ở Saigon, và đất
của nhà thờ La Vang v..v.., và do thực dân Pháp trước kia và chính quyền Ca Tô
Ngô Đình Diệm sau này ở Nam Việt Nam lạm dụng cường quyền cấp cho) với luận cứ
đó là tài sản thuộc Vatican, một luận cứ đần độn, vong bản, phi lý, phản ánh
tâm cảnh nô lệ của HĐGM Việt Nam. Với tâm cảnh này thì khi người Ca Tô lên cầm
quyền ở Việt Nam tất nhiên
mọi đất đai tài sản quốc gia sẽ đều thuộc Vatican
hết. 4. Một ác cảnh khác trong các nhà thương "từ thiện" của bà
Teresa không thể chấp nhận được là những sơ và những người thiện nguyện làm
việc cho bà phải dùng đi dùng lại những ống chích không được tẩy trùng để chích
những thuốc vô hiệu lực và thuốc trụ sinh không đủ mạnh cho các bệnh nhân khiến
cho họ càng đau đớn trong cơn hấp hối. (Judith Hayes, p. 68: Her employees and
volunteers used and reused unsterelized syringes to administer ineffective
drugs and mild antibiotics to terminally ill people, who suffered the resulting
agonies) Trước những sự thực phũ phàng về bộ mặt "từ thiện" thật của
bà Teresa ở trên, tác giả Judith Hayes, người đã từng nổi tiếng với tác phẩm
Chúng Ta Tin Thiên Chúa! Nhưng Là Thiên Chúa Nào? (In God We Trust! But Which
One?), và cũng là người mà qua những phương tiện truyền thông của Giáo hội đã
một thời tin rằng bà Teresa là một vị Thánh sống, sau khi biết rõ sự thực đã vạch
trần mặt trái của bà Teresa trong cuốn The Happy Heretic. Sau đây là một số
đoạn trong chương 2, trang 62-69, mục Một Khoa Học Gia Và Một Thánh (A
Scientist And A Saint), bình luận về giới truyền thông trước cái chết của Carl
Sagan (1996) và Teresa (1997). Tôi xin bỏ qua những đoạn viết về khoa học gia
Carl Sagan vì tôi cho rằng không thể so sánh Teresa với Carl Sagan: Bà Teresa
chỉ nhìn về quá khứ, thời mà người ta cho rằng các phù thủy là có thực, và
những chuyện đuổi quỷ ám ra khỏi con người là có nghĩa. Chúng ta không thể tự
cho phép nhìn về phía sau. Cảnh xun xoe tán tụng Mẹ Teresa trên khắp thế giới
là cơn ác mộng của một người theo chủ nghĩa nhân bản. Ký giả chen lấn nhau để
giành lấy máy vi âm và tìm những danh từ quá mức để mô tả cái người gốc Macedonie
(Teresa) không có gì nổi bật, đầu óc ở trên mây, với tâm cảnh thuộc thế kỷ thứ
9 này... Thật là một sự tôn sùng nồng nhiệt không nhằm chỗ. Chút ít điều tốt bà
làm chẳng đáng gì so với những số tác hại không thể tính được mà bà đã làm. Tài
nguyên trên trái đất thì hữu hạn, bất kể đến lập trường đà điểu của Giáo hội
Ca-Tô, và chúng ta phải nhìn về tương lai, xử dụng mọi phương tiện khoa học mà
chúng ta có, để tránh tai họa đang đe dọa. Điều này gồm có việc ngừa thai một
cách khá dễ dàng. Sự đau khổ mà chúng ta có thể phòng ngừa qua phương pháp ngừa
thai này thật là vô lượng. Do đó chúng ta không được nhìn về dĩ vãng, cúi đầu
trong những lời cầu nguyện vô vọng, trong khi con cháu chúng ta chết. Bà ta
thường xuyên rao giảng chống kiểm soát sinh đẻ ngay cả khi xung quanh có những
trẻ em chết đói. Khi người ta phỏng đoán về việc phong Thánh cho bà Teresa,
người ta đã bàn cãi nhiều về bằng chứng của những phép lạ, một điều kiện để
được phong Thánh. Nhưng tôi nói rằng có một bằng chứng rõ ràng về một phép lạ
của bà Teresa. Đó là bà đã xoay sở thuyết phục được hàng triệu người tin rằng
bà ta là món quà tốt cho nhân loại. Những hoạt động thuộc thời Trung Cổ của bà
được gói ghém lại và bán cho nhân loại như là một lợi ích thế gian, thay vì
thực chất của chúng là cản trở, ngăn chận sự tiến bộ của con người. Đối với
những người theo chủ nghĩa nhân bản, chức vị Thánh thật chẵng có nghĩa gì.
Riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ cái gì trong đời sống hoặc ký ức của bà
Teresa để mà tôn kính, xét đến sự đau khổ mà bà ta đã tạo ra cho hàng triệu
người. "Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la
rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông.
"Nhân danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ
tắt hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất
cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao (như các em hướng
đạo sinh đi bán bánh kẹo, ai bán được nhiều thì được đoàn trưởng gắn huy chương
khen thưởng. TCN) trong đời sau. Có lẽ đối với bà ta thế giới này không hề có
một ý nghĩa nào, chẳng qua chỉ là cái mê hồn trận thách đố của Thiên Chúa để
quyết định xem ai chiếm được mẩu tốt nhất trên thiên đường. Nếu thật là như vậy
thì chúng ta có thể giải thích, vì không có gì khác có thể giải thích được, tại
sao bà ta có thể nhẫn tâm ngồi trên nhiều triệu đô la như vậy trong khi trẻ
con, ngay cả ở nơi bà hoạt động ở Ấn Độ, đang chết đói. Điều này chống lại mọi
giải thích hợp lý, và tôi thách đố bất cứ ai, từ Morphew cho đến chính giáo hoàng,
có thể giải thích được sự kiện đó. Hiển nhiên là mục đích của bà ta là vơ vét
tích tụ tiền bạc. Để làm gì, ai muốn đoán sao thì đoán.. Thật là lạ lùng, không
có ai vạch trần những hoạt động đáng nghi ngờ của bà Teresa sớm hơn. Mà chúng
ta ai cũng biết chuyện các linh mục hiếp dâm các trẻ em trai, có phải không -
vậy tại sao mà những chuyện về bà Tewresa để quá lâu mới bị phanh phui? Câu trả
lời thật là đơn giản, Giáo hội Ca Tô Rô Ma có những quyền lực hăm dọa thật đáng
sợ. Cho đến khi tác phẩm có tác dụng mở mắt con người của Christopher Hitchen
xuất bản năm 1995, cuốn The Missionary Position, tôi không hề biết gì về những
hoạt động trong những "nhà thương" của bà Teresa. Cũng như mọi người
khác, tôi nghĩ rằng bà ta là một Thánh sống. Tôi đã lầm. Bất kể động cơ hành
động của người đàn bà ở Calcutta
kia (Teresa) là như thế nào, tôi đã thấy quá đủ những sự đau khổ trong những
người đã phải khủng khiếp trùn lại với tư tưởng của bà Teresa: đau khổ là một
điều tốt. Đau khổ không bao giờ là một điều tốt. Nhất là ngày nay, khi chúng ta
có khả năng làm giảm đi khá nhiều sự đau đớn, hình ảnh tâm thần của những người
bất hạnh bị vào một "nhà thương" của bà Teresa thật là đáng buồn và
đáng giận. Bộ mặt thật của bà Teresa đã bị phơi bày qua những tài liệu trích
dẫn ở trên. Tuy vậy, giáo hoàng vẫn ra Tông Huấn, mục 7, dạy các giáo hội Á
Châu phải “tuyên dương Mẹ Têrêsa quá cố của thành phố Calcutta, người nổi tiếng
trên khắp thế giới vì đã chăm sóc những người nghèo nhất với lòng yêu thương và
vị tha". Điều này chứng tỏ Giáo hoàng bất chấp những sự thực đã được phơi
bày về bộ mặt thực của bà Teresa, vẫn tiếp tục tô hồng đánh bóng bà Teresa
không chút ngượng ngập và dạy các con chiên thường xuyên sống trong bóng tối
của sự thiếu hiểu biết, do đó luôn luôn cúi đầu tuân phục những điều “đức thánh
cha” dạy, phải tuyên dương ca tụng một nhân vật mà thực chất rất đáng khinh,
không có gì đáng để ca tụng. Điều này cũng chứng tỏ là bất kể thực chất đạo đức
của người Ca Tô như thế nào, chỉ cần người đó làm lợi cho giáo hội là giáo hội
tuyên dương đánh bóng mà không cần đếm xỉa đến sự thật. Cũng vì vậy mà Vatican,
xưởng sản xuất thánh, để đạt được những mục đích chính trị và mê tín tôn giáo,
đã phong thánh bừa bãi cho các Hán gian, Việt gian v..v..dù rằng các thánh
trong Ca Tô Giáo chẳng có ý nghĩa cao đẹp gì đối với tuyệt đại đa số nhân loại.
Thực ra thì những hành động của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy
gì làm khó hiểu vì chúng nằm trong sách lược đi kiếm linh hồn cho Chúa của Giáo
hội trên khắp thế giới. Nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện,
viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, Ireland,và Úc Châu v..v.. thì chúng ta
sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở
Calcutta. B. S.
Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn
(Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25:
Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô
Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là
những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô (If people are poor and
hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the
Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing
but factories for converting people into Catholics). Rajneesh đã không nhắc đến
sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có
từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo
hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu
số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập
“làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự
kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu
Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas
International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là
"Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông
hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu
trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình
(Argentina). Nói tóm lại, những công cuộc “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca Tô Giáo
cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối
đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả
những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo.
Trong vài bài báo người ta đã đặt ra nhiều nghi vấn về cái động cơ chính thúc
đẩy bà làm việc thiện. Tờ Newsweek, số ngày 13 tháng 11, 1995, David Gates có
điểm cuốn sách "The Missionary Mission" của Christopher Hitchens viết
về Mẹ Teresa. Theo Hitchens thì: "Mẹ Teresa là một kẻ "mị dân"
chống phá thai và là kẻ "phục vụ cho những quyền lực thế gian.", thân
thiện với hạng người không tin cậy được như tên lừa đảo Charles Keating ở Ngân
Hàng Tiết Kiệm và Tín Dụng, mà nhân danh hắn Mẹ đã viết cho ông Tòa Lance Ito
trong vụ xử hắn năm 1992. Trong một bức thư trả lời với đầy đủ lý lẽ , ông Phó
Biện Lý của Tòa giải thích cho Mẹ Teresa biết bằng cách nào mà Keating đã ăn
cắp món tiền đểỵ biếu cho Mẹ, và đề nghi Mẹ hoàn trả lại số tiền đó cho các
"sở hữu chủ với đầy đủ pháp lý; Mẹ đã không hề hồi âm." Hitchens cũng
ghi chú rằng Mẹ đã vào "điều trị ở một vài bệnh viện tốt nhất và đắt tiền
nhất ở Tây phương." Hitchens lý luận rằng "Mẹ làm công việc từ thiện
không phải vì chính sự từ thiện mà chỉ để mong một ngày nào đó được kể như một
vị Thánh thành lập một dòng tu mới trong giáo hội." (Hitchens' Mother
Teresa is an anti-abortion "demagogue" and a "servant of earthly
powers," cozying up to such a slime as S & L (Savings & Loans)
swindler Charles Keating, on whose behalf she wrote to Judge Lance Ito during
his 1992 trial. In a well-reasoned reply, a deputy D.A. explained to her how
Keating stole the money he'd donated and suggested she return it to "its
rightful owners"; she never answered. ...Hitchens notes, she herself has
"checked into some of the finest and costliest clinics and hospitals in
the West." She does charitable work, he argues, "not for its own sake
but...so that she may one day be counted as the beatific founder of a new order
and discipline within the Church itself.") Đó là thực chất những công việc
"từ thiện" của Mẹ Teresa, người mà các tín đồ Gia Tô được nhồi vào
trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một
sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Báo chí và TV Âu Mỹ đã
phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International,
Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột"
(Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả cho nhiều tội
phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện chờ cơ hội chuồn sang Nam
Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). Theo tài liệu trong cuốn Ba Ngôi
Tội Lỗi (Unholy Trinity) của Mark Aarons và John Loftus, xuất bản năm 1990, thì
trong số những tội phạm chiến tranh này chúng ta có thể kể Franz D. Paul
Stangl, chỉ huy trưởng trại thủ tiêu tập thể Treblinka, trong đó tới 900000
người, phần lớn là Do Thái, bị giết bằng hơi độc; Gustav Wagner, chỉ huy trưởng
trại diệt chủng khác, trại Sobibor ở Ba Lan; Aloi Brunner, một sĩ quan cao cấp
tàn ác nhất trong chương trình "đem đi dầy và thủ tiêu" dân Do Thái;
và nhất là Adolf Eichmann, người đứng đầu "một giải pháp cho dân Do
Thái" (a solution for the Jews), nghĩa là, tận diệt dân Do Thái
(extermination of Jews), cấp chỉ huy của Stangl, Wagner, và Brunner. Người đứng
đầu tổ chức những đường "giây chuột" này mới đầu là Giám mục Alois
Hudal ở Rô Ma (Rome), sau được tiếp nối bởi Linh mục Krunoslav Draganovic, có
trụ sở ở Rome.. Franz Stangl bị Simon Wiesenthal săn lùng và cuối cùng bị bắt ở
Ba Tây (Brazil)
năm 1967. Ra tòa, Stangl khai rằng: "Trong thời gian chúng tôi ở trại tập
trung (của quân đội đồng minh), chúng tôi đã biết là phải đi tới Rome...Những
tín đồ Gia Tô phải liên lạc với Giám mục Hudal, người sẽ cho chúng tôi một thẻ
căn cước của cơ quan Hồng Thập Tự quốc tế và rồi một giấy nhập cảnh. ... Sau
nhiều tuần, Hudal gọi tôi tới và cho tôi một sổ thông hành mới - một sổ thông
hành của cơ quan Hồng Thập Tự...ông kiếm cho tôi một giấy nhập cảnh vào Syria và một công việc trong một hãng dệt ở Damascus.." (During
the time we were in the internment camps we knew that we should go to Rome... Catholics should
go to Bishop Hudal who would give us an International Red Cross Identity card
and then a visa.) ...After several weeks, Hudal called me in and gave me my new
passport - a Red Cross Passport...he got me an entrance visa to Syria and a job
in a textike mill in Damascus..) Wiesenthal tin rằng Eichmann được Hudal làm
cho một căn cước giả, dẫn đi chui tới Genoa, ở trong một tu viện của Tổng Giám
mục Siri, và rối trốn sang Nam Mỹ. Nhưng rồi Eichmann cũng bị tình báo Do Thái
truy lùng và kiếm ra nơi ẩn náu. Hắn bị Do Thái bắt cóc ở Argentina, mang ra xử và bị hành quyết tại Jerusalem năm 1962. Điều
làm cho Wiesenthal giận dữ là một cơ quan cứu trợ tù thiện Gia Tô, Caritas,
"đã đài thọ mọi phí tổn để Eichmann đi chui tới Nam Mỹ." (What angers
Wiesental is that a Catholic relief organization, Caritas, "paid all of
the expenses for Eichmann" to reach South America.)
Quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết về những cơ quan "từ thiện"
của Gia Tô giáo xin đọc cuốn sách trên, một cuốn sách dày 372 trang mô tả chi
tiết về những hoạt động của Vatican trong kế hoạch "từì thiện, bác
ái" để "cứu" những phạm nhân chiến tranh Đức Quốc xã. Trong phần
kết luận, hai tác giả Aarons và Loftus đã lên án Vatican
phạm bốn tội đối với nhân loại, trg. 280-285: 1) Những tội ác chống hòa bình
(Crimes Against Peace); 2) Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý (Obstruction of
Justice); 3) Thu nhận những đồ ăn cắp (Receiving Stolen Goods); và 4) Lạm dụng
đặc quyền ngoại giao (Abuse of Diplomat privileges). Sau đây là một đoạn ngắn
dưới đề mục 2): Ngăn Cản Sự Thực Thi Công Lý, trg. 282: "Những gì mà Giáo
hoàng làm sau cuộc chiến còn tệ hơn là không làm gì cả. Thay vì đưa những người
Do Thái vô gia cư sang Á Căn Đình, thì những đường giây chuột lại đưa lén
Eichmann, Pavelic, Stangl và nhiều tội phạm khác sang đó. Thay vì tố cáo Giám
mục Hudal thì Vatican lại thay thế ông bằng
Linh mục Draganovic, một nhân vật ít bị người ta chú ý tới, nhưng lại hoạt động
hữu hiệu hơn... Những gì mà Vatican làm sau Đệ
Nhị Thế Chiến là một tội ác. Bằng chứng rõ rệt cho thấy: Tòa Thánh đã giúp
những tội phạm chiến tranh trốn khỏi công lý quốc tế. Những đường giây chuột đã
được cố ý tạo ra để giúp đỡ và tiếp tay cho những tội phạm chiến tranh Đức quốc
xã đang bị truy lùng trốn thoát. Người ta đã biết từ lâu, trước năm 1945, là
Hudal ủng hộ Đức Quốc xã, nhưng hắn vẫn ở tại vị thế có nhiều ảnh hưởng rất lâu
sau khi bị công luận phanh phui. Người kế vị Hudal, Linh mục Draganovic, được
nhiều cơ sở tôn giáo giúp đỡ, in những thẻ căn cước giả, dùng sổ thông hành của
Hội Hồng Thập Tự với những lý do gian dối, và cung cấp phương tiện chuyên trở
dưới những tên giả. Những việc trên không phải là những hoạt động từ thiện Ki
Tô. Sự đưa lén những tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã đi trốn là sự lạm dụng vô
luân những cơ quan từ thiện hợp pháp của Giáo hội." (What the Pope did
after the war was worse than doing nothing. Instead of smuggling homeless Jews
to Argentina,
the Ratlines smuggled Eichmann, Pavelic, Stangl, among many others. Instead of
denouncing Bishop Hudal, the Vatican
replaced him with a less conspicuous, but far more efficient and effective
operative in the form of Father Draganovic. What the Vatican did after World War II was
a crime. The evidence is unequivocal: the Holy See aided the flight of fugitives
from international justice. The Rat lines were intentionally created to aid and
abet the escape of wanted Nazi war criminals. Hudal was known for his Nazi
affinitieslong before 1945, yet retained his influential position long after he
was publicly exposed. His successor, Father Draganovic, was assisted by several
religious orders which printed false identity cards, procured Red Cross
passports under false pretences, and provided transport under false names.
These were not acts of Christian charity. The clandestine Nazi-smuggling
immorally misused the Church's legitimate charitable organizations.) Tới đây,
hẳn chúng ta đã thấy thực chất những công việc "từ thiện" cỡ quốc tế
của Tòa Thánh Vatican.
Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Gia Tô Giáo mới làm
việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do
gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp
phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác,
tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương
người vị tha. Chỉ có Gia Tô giáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện:
dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm
thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình
bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói
đến cá nhân tín đồ Gia Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái
thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác. Ai cũng biết Giáo
hội Gia-Tô La Mã là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương
tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh theo ý Giáo hội về các công cuộc
"từ thiện" mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở
các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở thế giới văn minh Âu Mỹ này
thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn
đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát
biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi cái mặt trái của một chiếc
mề đay cũng phải phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì
đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi. 6.4. Chiêu Bài "Hòa Hợp
Tôn Giáo" của Giáo Hội Gia Tô. Như chúng ta đã biết, sau Đệ Nhị Thế Chiến,
với mặc cảm tội lỗi, và trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Gia
Tô không còn chọn lựa nào khác, vì quyền lực thế tục đã mất, không còn khả năng
bách hại những người ngoại đạo bằng những hành động bất nhân tàn ác, là phải
đưa ra chiêu bài hòa hợp tôn giáo qua Công Đồng Vatican II. Thực ra, phong trào
"hợp tác tôn giáo" đã do Giáo Hội Tin Lành đề xướng và phát triển từ
lâu. Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong cuốn Tài Liệu Vatican II Với Những Ghi
Chú, Bình Luận của Những Giới Chức Có Thẩm Quyền Gia Tô, Tin Lành và Chính
Thống Giáo (The Documents of Vatican II: With Notes and Comments by Catholic,
Protestant and Orthodox Authorities) , Walter M. Abbott làm Tổng Chủ Bút
(General Editor): "Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Gia Tô
La Mã để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất giáo hội. Cho đến năm 1959,
ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng Giêng, là hi vọng giáo
dân Tin Lành sẽ "trở lại" giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Gia Tô
La Mã) và Chính Thống Giáo sẽ dẹp tiệm. Cũng trong những thập niên này, những
tín đồ Tin Lành đã tham gia vào cái về sau đư/ợc gọi là "phong trào hợp
tác tôn giáo". Sự phát triển thành hình Công Đồng Giáo Hội Toàn Cầu, sự
gia tăng trong việc tập hợp các giáo hội Tin Lành địa phương trên hoàn cầu, sự
kết hợp của các giáo hội, tất cả những hoạt động trên biểu thị một đư/ờng
hư/ớng thống nhất. Giáo hội Gia Tô La Mã vẫn đứng ở ngoài xa. Ở Âu Châu có
những trung tâm điều nghiên Gia Tô quan sát canh chừng những sự phát triển này,
nhưng đại cương thì giáo hội chỉ canh chừng và cầu nguyện, chứ không tham gia
cuộc đối thoại hay cầu nguyện của các giáo hội Tin Lành. Thế rồi Giáo Hoàng
John XXIII lên ngôi và ngày 25 tháng 7 năm 1959 ngài loan báo ý định triệu tập
một công đồng hợp tác tôn giáo." (Each year in January, for many decades,
Roman Catholics have offered eight days of prayer for Church unity. Until 1959,
the general idea behind those days of prayer, January 18-25, was the hope that
the Protestants would "return" to the one true Church, and that the
Orthodox schism would end. Throughout those same decades, Protestants became
more and more involved in what had come to be called the "ecumenical
movement." The development of the World Council of Churches, the growth of
national and world-wide groupings of Protestant Churches, the merges of
Churches - all these expressed the groping toward unity. The Roman Catholic
Church remained aloof. There were Catholic centers of study in Europe that
watched developments, but, in general, the Church watched and prayed without
joining in the dialogue and prayer of the Protestant Churches. Then came Pope
John XXIII and, on January 25, 1959, he announcement of his intention to call
an Ecumenical Council.) Vậy, căn bản thì phong trào hợp tác tôn giáo là để
thống nhất các giáo hội Thiên Chúa Giáo: Gia Tô, Tin Lành, và Chính Thống. Thật
vậy, "bản dề nghị sắc lệnh hòa giải hòa hợp tôn giáo (conciliar Decree on
Ecumenism) gồm có 5 chương. 3 chương đầu nói về nguyên tắc và cách thực hành
hòa hợp tôn giáo và những giao hệ với các giáo hội Tinh lành và Chính Thống.
Chương thứ tư nói về sự giao hệ với người Do Thái; chương thứ năm về tự do tôn
giáo." (There were five chapters. The first three covered principles and
practices of ecumenism and relations with Protestant and Orthodox Churches. The
fourth chapter was on the relations with the Jews; the fifth was on religious
freedom.) Ngày 21 tháng 11 năm 1964, sắc lệnh được chấp thuận với 2107 phiếu
thuận và 11 phiếu chống. Giáo hội Gia Tô La Mã đã chính thức tham gia phong
trào hợp tác tôn giáo Trong sắc lệnh này, chương thứ tư nói về Do Thái đã được
Hồng Y Bea mở rộng để thêm vào đó một bản tuyên ngôn liên hệ đến các tôn giáo
phi-Ki-Tô (non-Christian religions). Tuy nhiên, đọc toàn bộ văn kiện chúng ta không
thấy một văn kiện nào nói về sự hợp tác tôn giáo với các tôn giáo phi-Ki-Tô mà
chỉ có một "Bản Tuyên Ngôn về Mối Giao Hệ của Giáo Hội với các Tôn Giáo
phi-Ki-Tô" (Declaration on the Relationship of the Church to non-Christian
Religions). Và ngay trong bản tuyên ngôn này, tòa Thánh vẫn khẳng định là
Thượng đế đã tạo dựng giống người và con người chỉ có thể có một đời sống tôn
giáo đầy đủ nhất trong Chúa Ki-Tô v..v.. (For all people comprise a single
community, and have a single origin, since God made the whole race of men dwell
over the entire face of the earth... Indeed, she (the church) proclaims and
must ever proclaims Christ, "the way, the truth, and the life", in
whom men find the fullness of religious life, and in whom God has reconciled all
things to Himself.) Một khi đã chấp chặt quan niệm chân lý chỉ có một thì mọi
đối thoại để đi đến sư hòa giải và hợp tác tôn giáo trở nên vô ích, và bản chất
của cái gọi là "hợp tác tôn giáo" chỉ ở trên đầu môi chót lưỡi. Đầu
môi chót lưỡi đã mở nhưng tâm thức vẫn còn khép kín trong cái mà Tiến Sĩ
Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của Ý Thức Hệ La Mã" (The thick
darkness of Romanism). Muốn hiểu rõ hơn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu thêm một
chút về lý do tại sao tòa Thánh Vatican lại đột nhiên đưa ra chiêu bài
"hợp tác tôn giáo" Lý do chính là, nhân loại càng ngày càng văn minh
tiến bộ, nhất là ở các phương trời Âu Mỹ, cho nên con người không còn chấp nhận
sự hẹp hòi của Gia Tô Giáo nữa, như Linh Mục dòng Tên Malachi Martin đã nhận
định trong cuốn "The Keys of This Blood": "The sophisticated
West can take Catholicism's narrowness no longer. The Pope realizes
that.", và trước sự phát triển của Tin Lành và nhất là Hồi Giáo nên tòa
Thánh bắt buộc phải dùng lá bài "hòa hợp tôn giáo" để chỉnh trang lại
cái bộ mặt của mình trong cái cộng đồng thế giới đa nguyên này. Thực chất của
những sách lược này ra sao, chúng ta phải nhìn kỹ vào những gi Giáo hội đã làm
chứ không nên chỉ nghe những gì Giáo hội nói. Trước hết là vài nhận xét. Bản
tuyên ngôn của Giáo hội về vấn đề hòa hợp tôn giáo thực tế chỉ có trên giấy tờ,
vì cho tới ngày nay, hơn 30 năm sau, Giáo hội vẫn không có hành động hòa hợp
tôn giáo nào cụ thể. Thực chất sách lược hòa hợp tôn giáo của Giáo hội Gia Tô
La Mã ra sao? Vài tài liệu sau đây hi vọng sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Avro
Manhattan viết trong cuốn "The Vatican's Holocaust", xuất bản năm
1986, như sau: "Giáo hội Gia Tô đột nhiên tham gia hợp tác tôn giáo là một
sách lược cổ điển để làm cho người ta quên đi cái bản chất bất khoan dung vẫn
tồn tại trong giáo hội. Chúng ta phải nhớ rằng nếu các tòa án xử dị giáo đã
được bãi bỏ từ giữa thế kỷ trước thì cái Văn Phòng Thánh, nguồn cảm hứng và
công cụ của các tòa hình án mới chỉ được "dẹp bỏ" mới vài năm naỵ
Thực ra, Văn phòng này còn đang hoạt động dưới một cái tên hoa mỹ ở giữa những
bức tường kín đáo trong Vatican. (Cơ quan truyền bá đức tin (Congregation for
the Propagation of Faith). TCN) Một trong những nhiệm vụ chính của văn phòng
này là làm sao cho cái lò sát sinh ở Croatia và cái chế độ gia tô độc tài ở
Việt Nam được quên đi, và trở thành một mẩu ghi chú của lịch sử xa xôi. Sách
lược này đã thành công một phần...Không như những trại tập trung kinh khủng của
Hitler và Stalin, các trại tập trung ở Croatia và cảnh Phật tử tự thiêu ở Việt
Nam, một hình thức phản đối sự can thiệp khủng bố tôn giáo của Vatican, đã trở
thành những cấm kỵ trong diễn đàn truyền thông thế giới. (Bây giờ chúng ta đã
hiểu tại sao ở ngoại quốc có cả một chiến dịch phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm
cũng như xuyên tạc và bôi nhọ các cuộc tự thiêu chống Diệm của Phật Giáo) Những
đoan quyết căn bản của Gia Tô chưa bao giờ thay đổi tí nào. Cho đến nay cũng
như tự bao giờ, sự chấp chặt của Giáo hội Gia Tô trên tính chất duy nhất của
giáo hội vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì những chấp chặt này mà đã
xảy ra tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Gia Tô ở Việt Nam. Nếu quá
khứ là một dấu hiệu về những việc xảy ra trong tương lai thì, khi nắm được cơ
hội và ở trong một bối cảnh chính trị thích nghi, những tòa án xử dị giáo mới,
những Croatia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu
và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được." (The Catholic Church's
sudden espousing of Ecumenism was a classic device to make people forget that
her basic spirit of intolerance is still with her. It must be remembered that
if the Inquisition was banned, against her will, only during the middle of the
last century, the Holy Office, its inspirer and instrument was
"abolished" only a few years ago. In fact, that it is operating,
disguised under a specious name, in the silent walls of the Vatican of today.
One of its main current tasks is to make sure that the Croatian Holocaust and
the Catholic dictatorship of Vietnam are forgotten, and become a mere footnote
of remote history. It has partially succeeded...Unlike Hitler's and Stalin's
horrigic concentration camps, the Croatian ones and the Buddhist
self-immolation in Vietnam, as a protest against the Vatican's religious
terroristic interference, have already become taboos to the mass media of the
World. ...The Basic Catholic claims have never changed one single iota. The
Catholic Church's insistence about her own uniqueness has remained as
granitically firm now, as it has always been. These are the same claims which
produced the Inquisition, Croatia and the Catholic Dictatorship of Vietnam. If
the past be an indication of the shape of things to come then, given the right
opportunities and appropriate political climate, New Inquisition, New Croatias
and New Vietnams will be created again and again. When, where and how, only the
future will tell) Trong cuốn "Letters to an Ex-Priest", linh mục
Emmet McLoughlin viết như sau: "Chủ nhân của sự chuyên chế tư tưởng con
người" trong nhiều thế kỷ (nghĩa là, Giáo Hội Gia Tô) nay đã khoác cái áo
huynh đệ hợp tác tôn giáo, được bảo vệ bởi cái khẩu hiệu "khoan dung"
để quyến rũ những nhà cầm quyền cao cấp.." (The centuries-old mistress of
"tyranny over the mind of man" (i.e., the Catholic Church) clothed
now in the robe of Ecumenical Brotherhood, protected by the slogan of
"tolerance", seduces the rulers in high places) Giáo sĩ (Rabbi) David
Polish thì cho rằng: "Bản tuyên ngôn của Công Đồng Vatican có vẻ kênh kiệu
và thiếu tinh thần hòa giải. Giáo sĩ cho đó là "một thông cáo đơn phương
của một phe tin tưởng rằng có thể chỉnh trang bộ mặt theo ý mình về một sự sai
lầm không được thú nhận"" (Rabbi David Polish finds the Vatican
Council Declaration condescending and lacking the spirit of reconciliation. He
refers to it as "a unilateral pronaoncement by one party which presumes to
redress on its own terms a wrong which it does not admit.) Và, Giám Mục Emile
de Smedt, phát ngôn viên của ủy ban soạn về đề mục tự do tôn giáo đã đưa ra
nhận xét sau đây trước Công đồng linh mục ngày 19 tháng 11 năm 1963:
"Nhiều người phi-Gia-Tô đã nuôi sự thù ghét đối với giáo hội, hay ít ra
cũng nghi ngờ đó là một loại chủ thuyết Machiavelli (nghĩa là chỉ cần đạt được
mục đích bất kể đạo đức. TCN), vì đối với họ chúng ta có vẻ như là khi ở thế
thiểu số trong quốc gia nào thì chúng ta đòi hỏi phải được tự do tôn giáo nhưng
cùng lúc lại từ chối hay tước bỏ cùng sự tự do tôn giáo đó của họ nếu chúng ta
ở thế đa số. Tại sao lại nói đến đối thoại với các người Ki-Tô khác, với người
Do Thái, với tất cả những người phi-Ki-Tô (non-Christians) khi thực ra về lý
thuyết cũng như thực hành, giáo hội Gia Tô La Mã không tôn trọng cái tự do của
những người phi-Gia-Tô. Bất cứ kế hoạch hòa hợp tôn giáo nào của giáo hội Gia
Tô cũng sẽ hoàn toàn vô hiệu quả và hoàn toàn vô nghĩa trừ phi giáo hội tuyên
bố rõ ràng và với thẩm quyền rằng giáo hội sẽ tôn trọng sự tự do của các tín
ngưỡng khác, dù rằng giáo hội có quyền hành hay cơ hội có thể làm khác, và rằng
giáo hội phải dựa trên căn bản tự do tôn giáo, lên án sự bất khoan dung, bách
hại và kỳ thị ." (Many non-Catholics harbor an aversion against the
Church, or at least suspect it of a kind of Machiacellianism, because we seem
to them to demand free exercice of religion when Catholics are in a minority in
any nation and at the same time refuse and deny the same religious freedom when
Catholics are in the majority. Why speak about dialogue with other Christians,
with Jews, with all non-Christians, if, in theory or in fact, the Roman
Catholic Church does not respect the freedom of non-Catholic religions? Every
ecumenical "move" of the Catholic Church will be completely fruitless
and devoid of any real meaning unless the Church states clearly and
authoritatively that it will respect the liberty of other believers, even if it
has the power or the occasion to do otherwise, and that it condemns
intolerance, persecution and discrimination on grounds of religious liberty.)
Đó là thực chất của sự "hợp tác tôn giáo" mà Vatican phát động từ năm
1965. Bây giờ đến một vấn đề thực tế nhất là sau khi cho phổ biến bản tuyên
ngôn về hòa hợp tôn giáo thì giáo hội đã đạt được những thành quả nào trong
việc thực thi hòa giải hòa hợp tôn giáo? Chúng ta không mấy quan tâm đến những
việc thuộc các tông phái Ki Tô Giáo nhưng có những sự kiện sau đây cần biết:
Gia Tô La Mã, Chính Thống Giáo, và Hồi Giáo vẫn tiếp tục giết nhau ở Bosnia.
Gia Tô và Tin Lành vẫn giết nhau ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Đối với các tôn giáo
phi-Ki-Tô thì, ở Thái Lan, lợi dụng tinh thần khoan dung tôn giáo của dân Thái,
giáo hội Gia Tô ở Thái, tuy chỉ chiếm khoảng 1% dân số, đã có những hành động
xâm nhập phá Phật Giáo và phổ biến những tài liệu có tính cách hạ thấp dân Thái
và Phật Giáo. Theo tài liệu trong cuốn "Một Âm Mưu Phá Ngầm Phật
Giáo" của Viện Đại Học Mahakamut, Thái Lan ("A Plot to Undermine
Buddhism", Mahakamut University, Thailand, 1987) thì ngày 10 tháng 5,
1984, Hiệp Hội Bảo Vệ Đạo Pháp Thái Lan đã gửi cho Giáo hoàng John Paul II một
kháng thư nhân dịp ông tới Thái Lan. Sau khi phàn nàn về việc Giáo hội Gia Tô
La Mã tại Thái Lan xâm nhập Phật Giáo với nhiều hành động sai trái, theo chỉ
thị của Vatican, có bằng cớ dẫn chứng (The Roman Catholic Church in Thailand
has intruded Buddhism with many injust actions as shown in the attached
Protesting Memorandum), Hiệp Hội yêu cầu John Paul II ra lệnh cho các tín đồ
Gia Tô hãy chấm dứt xuyên tạc và phá Phật Giáo (To stop the Catholics here in
Thailand from distorting and subverting Buddhism). Ngoài ra, năm 1994, John
Paul II đã viết cuốn "Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng" (Crossing the
Threshold of Hope) trong đó Ngài đã xuyên tạc và hạ thấp một số tôn giáo phi Ki
Tô, đặc biệt là Phật Giáo. Những sự kiện vừa nêu trên chứng tỏ bản chất của Gia
Tô La Mã giáo không hề thay đổi, đúng như nhận định của Avro Manhattan. Điều
này cũng làm cho các quốc gia nghèo khó, chậm tiến, phi Ki Tô luôn luôn phải đề
phòng những âm mưu, hành động phi dân tộc và tất nhiên phản dân tộc của một số
không nhỏ tín đồ Gia Tô nội trùng. Đó là khi ở thế yếu mà Gia Tô Giáo địa
phương còn làm càn như vậy, nếu họ ở thế mạnh, nắm trong tay chính quyền, thì
không biết họ còn lộng hành tới đâu. Những biện pháp bóp nghẹt tự do, tiêu diệt
các tôn giáo khác của Palevich ở Croatia, của Franco ở Tây Ba Nha, và Ngô Đình
Diệm ở Nam Việt Nam là những sự kiện lịch sử tương đối mới mẻ, quốc gia nào mà
không biết đến những sự kiện này và do đó không lưu tâm đề phòng thì những cảnh
trên rất có thể lại tái diễn. Tại sao phải đề phòng? Vì những tín đồ Gia Tô ở
các nước nghèo khổ, chậm tiến, vẫn còn tinh thần nô lệ Vatican cao độ và cuồng
tín hơn những tín đồ Gia Tô ở bất cứ quốc gia văn minh tiến bộ nào trên thế
giới. Cho nên, muốn giảm thiểu cái hiểm họa Gia Tô, cách tốt nhất là mở mang
dân trí, cho người dân biết những sự thực về tôn giáo nói chung, Gia Tô Giáo
nói riêng. Mở mang dân trí phải được coi như là một quốc sách, một sách lược mà
các quốc gia tân tiến Âu Mỹ đã thi hành. Một khi dân trí đã mở mang như ở các
nước văn minh tiến bộ thì sự cuồng tín của các tín đồ Gia Tô sẽ bớt đi và nguy
cơ lộng hành của Gia Tô Giáo cũng bớt đi, và người dân nói chung không dễ bị
lường gạt bởi những thông tin, hứa hẹn hão huyền, sai sự thực. Lịch sử cho
thấy, Giáo hội rất sợ giáo dân biết tới những sự thực về Gia Tô Giáo. Điển hình
là gần đây ở Việt Nam, Giáo hội đã cho tín đồ đi thu mua cuốn "Đối Thoại
Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II", Giao Điểm xuất bản, để ngăn chặn sự phổ
biến tác phẩm có giá trị này nơi quần chúng. Đây là chính sách ngu dân của Giáo
hội đã được thi hành qua nhiều thế kỷí nhưng đã trở thành vô hiệu ở bên phương
trời Âu, Mỹ kể từ đầu thế kỷ 20. Tại sao lại vô hiệu? Vì càng thu mua thì dân
chúng càng tò mò muốn đọc, và các con buôn lợi dụng tình trạng này, lại càng in
thêm ra nhiều nữa để kiếm lời. Rút cục, mục đích ngăn chặn không đạt được mà
lại còn giúp cho sự phổ biến rộng rãi hơn. Vì vậy, ngày nay Giáo hội hoàn toàn
làm ngơ trước những tác phẩm thuộc loại trên, vì càng lên tiếng thì càng có
nhiều người biết, và điều này có ảnh hưởng đến các tín đồ không ít. Một mặt
khác, việc thu mua và tiêu hủy những tác phẩm trong đó có những tài liệu vạch
ra những sự sai trái của Giáo hoàng và Giáo hội đã có phản ứng ngược lại: đó là
Giáo hội thú nhận và sợ những sự thực viết trong những tác phẩm kể trên, đồng
thời chứng tỏ sự yếu kém và thiếu tự tin của Giáo hội về những giáo điều Giáo
hội đưa ra, không còn có tính cách thuyết phục con người văn minh tiến bộ nữa.
Cũng như không ai có thể lấy bàn tay che nổi mặt trời, Giáo hội Gia Tô không
thể nào bưng bít sự thật bằng những hành động thu mua phản trí thức, phản tiến
bộ. Với quyền lực về chính trị và tiền bạc như Giáo hội Gia Tô toàn cầu mà còn
làm không nổi, thử hỏi Giáo hội Gia Tô nhỏ nhoi như ở Việt Nam làm sao có thể
ngăn chặn được chiều hướng mở mang trí óc người dân, và ngăn chặn được đến bao
giờ?
CHƯƠNG VII
MARY VÀ NHỮNG VỤ “HIỆN THÂN”
Lời Nói Đầu
Người
được gọi là Đức Mẹ Mary của Công Giáo, trong lịch sử Công Giáo, đã hiện thân ra
rất nhiều nơi, tùy theo sự dàn dựng của Giáo hội Công Giáo Mẹ ở Vatican, thí dụ
như ở Fatima, hay của các giáo hội Công Giáo địa phương, thí dụ như La Vang, Lộ
Đức, Guadalupe v..v.., hoặc tùy theo sự tưởng tượng của con người, thí dụ như
hình vết nước rỉ trên bức tường dưới gầm cầu ở Chicago, vết loang lổ trên một
vựa chứa thóc, trên một chiếc bánh “Pancake” mà một thực khách đang ăn trong
một tiệm ăn, và hàng trăm nơi khác trên thế giới. Có một câu hỏi là, Mary hiện
ra để làm gì, có ích gì cho nhân loại, và đã thực hiện được những gì cụ thể
những điều mà người ta cho là bà ta nói, và không nói, ở những nơi hiện ra? Câu
hỏi như trên thường không được mấy người, kể cả giáo hội Công Giáo bàn đến.
Giáo hội chỉ quan tâm đến sự kiện là, mỗi lần hiện ra ở những nơi như vậy lại
có nhiều tín đồ đổ xô đến chiêm bái, cầu nguyện, mà không bao giờ quan tâm đến
chuyện Mary hiện ra để làm gì? Người ngoại đạo và cũng không thiếu gì những
người có đầu óc trong đạo thường cảm thấy sửng sốt và ngỡ ngàng khó hiểu trước
những hoạt cảnh như vậy trong thời đại nguyên tử ngày nay.
Phân
tích những vụ hiện ra, các học giả ngày nay đã cho rằng các trường hợp hiện ra
của Mary không nằm ngoài chuyện làm công cụ cho giáo hội Công Giáo trong những
mục đích chính trị hoặc nuôi dưỡng, đẩy mạnh thêm sự mê tín, sùng tín của các
tín đồ, và lẽ dĩ nhiên, không thể tách rời mục đích kinh tế. Để chứng minh điều
trên, trong loạt bài này, tôi sẽ viết về hai nơi hiện ra của Mary nổi tiếng
nhất trên hoàn cầu là Lộ-Đức [Lourdes] ở Pháp
vào năm 1858, và Fatima ở Bồ Đào Nha vào năm
1917, do Giáo hội dựng lên. Nhưng vì là người Việt Nam nên tôi không thể bỏ qua
một nơi khác, không nổi tiếng như hai địa danh trên, nhưng người Công giáo Việt
Nam đã coi như là một linh địa, linh địa La Vang ở gần Quảng Trị, một linh địa
rất ít được thế giới biết đến và không có mấy ai đến hành hương ngoại trừ những
tín đồ Công Giáo bản địa, và chỉ bắt đầu từ thời Phán Quan Tây Ban Nha Ngô Đình
Diệm, ông Tổng Thống có tham vọng Công Giáo hóa miền Nam, đưa cả khối dân 93%
Việt Nam không Công Giáo vào vòng mê tín dị đoan, nô lệ Vatican. Ngày nay, La
Vang dược dùng làm nơi biểu dương lực lượng Công Giáo, một thách đố chính trị
nấp sau chiêu bài tôn giáo đối với chính quyền, và rất có thể dùng làm bàn đạp
để tiến tới những thách đố chính trị khác. Để có thể nhận rõ giá trị của các vụ
hiện ra của bà Mary, tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta phải biết rõ vài sự
thật về nhân vật Mary là ai. Cho nên, trong phần sau đây, tôi sẽ viết về bà
Mary trước.
Sự Thật Về Mary Là Ai?
Trước
hết, phần nghiên cứu về Mary này không có mục đích phá đổ sự sùng tín Mary của
các tín đồ Ki Tô Giáo, mà chỉ có mục đích giáo dục, mở mang kiến thức, qua sự
tìm hiểu về nhân vật Mary trong Ki Tô Giáo thực sự là như thế nào, qua chính
Kinh Thánh của Ki Tô Giáo và các tác phẩm nghiên cứu của chính những người
trong Ki-Tô Giáo, từ các bậc lãnh đạo tôn giáo cho đến các nhà thần học, học
giả, giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo trong các truyền thống Ki Tô Giáo.
Vì như Friedrich Nietzche đã viết: “Những
gì mà quần chúng được dạy để mà tin không cần đến lý lẽ, vậy thì ai là người có
thể bác bỏ niềm tin đó bằng những lý lẽ.” (What the populace learned to believe
without reasons, who could refute it then by neans of reasons?) Hơn nữa, tôi
hiểu rõ rằng, theo H. L. Mencken thì “Đức
Tin là một kiểu tin phi lô-gíc vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực” (Faith is an
illogical belief in the occurence of the improbable), và theo tự điển thì “Đức tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không
chứng minh được cái đó có thực” (Faith is the firm belief in something for
which there is no proof). Đức tin trong Ki Tô Giáo là như vậy, do đó sự sùng
tín Mary dựa trên những sự kiện lịch sử hay trên những huyền thoại, truyền thuyết,
không phải là vấn đề đối với những người tin. Cái mà họ chọn để mà tin, hay đã
được cấy vào đầu từ nhỏ để mà tin, thì không cần thiết phải dựa trên những bằng
chứng lịch sử, bằng chứng khoa học. Không có một công thức nào, một lý luận trí
thức nào, hay một bằng chứng khoa học nào có thể mang ra để xác định hay thử
nghiệm một đức tin. Cũng vì vậy mà Giáo Hoàng John Paul II đã viết trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” : “Chúng ta chỉ có thể hoặc tin, hoặc không tin.” Và con chiên của ông
ta, Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn
Ngón Tay Và Mặt Trăng
cũng khẳng định: “Tin là một cách sống
chết, không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu.”
Nhưng
do sự tiến hóa của nhân loại, con người không thể tự cho phép sống mãi trong
bóng tối của sự vô minh. Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các vấn đề rành
rọt, nhìn sự việc như chúng đúng là như vậy, là nỗ lực của giới trí thức Tây
Phương trong mấy trăm năm nay. Cũng vì vậy, trong vòng mấy trăm năm nay, các
trí thức Tây phương đã thoát ra khỏi gọng kìm của Ki Tô Giáo nói chung, Công
Giáo nói riêng. Họ đã gỡ bỏ được những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, đã vứt bỏ
được cái vòng kim cô đã xiết chặt đầu óc họ, và cuốn Kinh Thánh của Ki Tô Giáo
mà trước đây đã được áp đặt trên đầu óc của tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo trên
khắp thế giới, với sự độc quyền diễn giải Kinh Thánh và thêm thắt ngoài Kinh
Thánh của các giáo hội Ki Tô Giáo, do đó họ chỉ có quyền nghe chứ không có
quyền đặt nghi vấn, nay đã được mang ra nghiên cứu, mổ sẻ, phân tích chi tiết
hơn bất cứ cuốn sách nào khác.
Theo
đường hướng mở mang kiến thức này, vì Mary là mẹ của Giê-su trong Tân Ước, cho
nên nguồn tài liệu đầu tiên mà chúng ta phải tìm đến chính là cuốn Tân Ước.
Nhưng trong cuốn Tân Uớc, Mary được nhắc đến rất ít, và không có chỗ nào nói bà
là “Mẹ Thiên Chúa” (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate
Conception) [Xin đứng nhầm là thụ thai Giê-su], “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual
Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix)
v..v... Tất cả những danh hiệu này là do Giáo Hội Công Giáo cưỡng đặt ra về sau
và bắt các tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường, lẽ dĩ
nhiên phải qua ngả Vatican,
vì Vatican nắm trong tay những chìa khóa mở
cửa thiên đường. Trong Thánh Đường Phê-rô ở Vatican
có bức tượng Phê-rô tay cầm chiếc chìa khóa mở của thiên đường, và các giáo
hoàng đều là những người thừa kế Phê-rô.
Trong
Tân Ước, ngoài huyền thoại về sự sinh ra của Giê-su, bà Mary chỉ xuất hiện có
vài lần: cùng với chồng là Joseph đi kiếm ông con Giê-su 12 tuổi tưởng là bị
lạc nhưng thực ra là trốn cha mẹ ở lại trong một giáo đường (Luke 2: 41-49);
trong một bữa tiệc cưới có Giê-su dự và tại đây Giê-su đã trổ tài làm phép lạ
biến nước thành rượu (John 2: 1-5); cùng với các con khác [4 con trai và ít
nhất là 2 con gái] đến thăm Giê-su khi Giê-su đang giảng đạo nhưng Giê-su không
tiếp và còn lên tiếng hỏi: “Ai là mẹ
ta? Ai là các em ta””
(Matthew 12: 48); có mặt khi Giê-su bị đóng đinh chết trên thập giá (John
19:25-26); và cầu nguyện cùng những người theo Giê-su sau khi Giê-su thăng
thiên (Acts 1:14). Và tất cả chỉ có vậy. Vì tất cả chỉ có vậy trong Tân ước,
nên tất cả những gì Giáo hội Công Giáo nói về Mary và bắt các tín đồ Công Giáo
phải tin chỉ là những sản phẩm thần học của Công Giáo để đưa tin đồ vào những
niềm tin không cần biết không cần hiểu. Nền thần học về Mary (Mariology) của
Công Giáo chỉ có mục đích dựng Mary lên thành một hình tượng để cho tín đồ sùng
bái (Mariolatry) và từ đó khai thác sự mê tín của tín đồ để thu về những nguồn
lợi vật chất khổng lồ về thương mại và kinh tế.
Tất
cả những danh hiệu mà Giáo hội Công Giáo đưa ra về Mary qua nền thần học Công
Giáo đều dẫn xuất từ huyền thoại Giêsu sinh ra từ “Mary đồng trinh” và rồi sau
đó nâng Giê-su từ một người thường thành đấng Ki-Tô cứu chuộc, cho nên, trước
hết chúng ta hãy đọc trong Tân Ước về huyền thoại Giê-su sinh ra đời. Trong Tân
Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm này
viết sau khi Giê-su chết từ 50 tới 70 năm. Ngày nay, người ta đã kiếm được một
số tài liệu nói về Giê-su còn sót lại, không bị thiêu hủy bởi Công Giáo, vì
trong những tài liệu này có những chứng tích không phù hợp với nền thần học của
Công giáo. Thí dụ như tài liệu mang tên Sepher
Toldoth Jeshu,
viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, mà cuối thế kỷ 19 mới được dịch ra tiếng Anh
là The Jewish Life of Jesus, có nghĩa là Cuộc Đời Do Thái Của Giê-su.
Muốn
tìm hiểu về Mary, chúng ta không thể tách rời Mary ra khỏi vai trò của Giê-su
trong Ki Tô Giáo, và không đâu rõ bằng chuyện Mary sinh ra Giê-su. Phúc Âm
Matthew (Mã-Thi-Ơ) kể như sau, Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn
chữ đậm:
Sự sinh ra của
Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi
họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng,
Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định
kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông
còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một
giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ,
vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa
con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội
lỗi.
Việc xảy ra
đúng như lời Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo]
tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh
nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là
Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.
Joseph tỉnh
giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ
cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Chúng
ta hãy phân tích đoạn trên trong Tân Ước. Phân tích Kinh Thánh với đầu óc tỉnh
táo, không mê mẩn, và với một chút lô-gíc, là một nghệ thuật. Thật vậy, chỉ bằng
vào một đoạn ngắn như trên, chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà
thưởng thức, nếu chúng ta có khả năng đọc giữa những giòng chữ để có thể thưởng
thức những chuyện cấm đọc, cấm hiểu trong Công Giáo.
Thứ
nhất, chuyện Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng
Maria càng ngày càng to, và định kín
đáo từ hôn
không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái. Randel Helms
viết trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng
Trong Phúc Âm
(Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew
không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp
pháp và công khai”
(Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside
quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and
public.) Câu Joseph là người tốt bụng,
không muốn nàng bị nhục trước công chúng ... cũng chứng tỏ là Joseph biết rõ là cái
thai trong bụng Mary không phải là của mình.
Nghiên
cứu cổ sử Do Thái, các học giả đã khám phá ra rằng, ngay từ đầu thế kỷ 2, nhiều
tác giả Do Thái đã cho rằng khuôn mặt thần thánh của Giê-su thật ra chỉ là một
đứa con hoang. Họ dựa vào chính Tân Ước vì Tân Ước viết rằng Joseph là chồng
của Mary nhưng lại không phải là cha của Giê-su. Và ngay trong thời đại này, có
nhiều học giả nghiên cứu Tân Ước cũng nghĩ như vậy.
Thí
dụ, Jane Schaberg trong cuốn The
Illegitimacy of Jesus,
xuất bản năm 1987, còn cho rằng “rất
có thể Mary bị hiếp, và Matthew đã dựng lên một khung thần học tinh vi để biến
đổi thực tế ô nhục trên thành một huyền thoại mà ông ta có thể xây dựng một
truyền thống trên đó.” (Jane Schaberg, in her 1987 book The Illegitimacy of Jesus, argues that Mary
was most likely raped, and that Matthew constructed an elaborate theological
architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build
a tradition).
Trong
tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số
ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia
về Thánh Kinh (biblical scholar), về Giê-su
ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc
Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta
cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong
Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì
con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ
không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường.
Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang
Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Giê-su
thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.
(Reynolds
Price, Time, Dec. 6, 1999: The
suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of
bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6,
"Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to
one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that
one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise
suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His
childhood may well be clouded by questions about his paternity.)
Và
Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ
Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A
Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:
Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa
ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta
là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc
Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra
và chưa nổ
.
(John
Shelby Spong, Born of a Woman: A
Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which
nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might
well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and
unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian
tradition.)
Như
vậy, xưa cũng như nay, ngoài các tín đồ Công Giáo, không có mấy ai tin Thánh
Linh là tác giả cái thai trong bụng Mary. Tôi xin nhắc lại là phần phân tích
khảo cứu này có mục đích giáo dục, mở mang kiến thức, chứ không phải là để phỉ
báng bà Mary, đối tượng sùng tín của các tín đồ Ki-Tô Giáo. Và những kết quả
nghiên cứu phân tích đều là của các tác giả Tây phương trong các xã hội Ki Tô
Giáo và trong chính Ki Tô Giáo chứ không phải là của tôi.
Một
vấn đề được đặt ra là, tại sao lại có nhiều học giả ngày nay cũng nghĩ như
những tác giả Do Thái khi xưa, cho rằng Giê-su chỉ là một đứa con hoang? Vấn đề
thực sự không lấy gì là khó hiểu. Nếu chúng ta đọc kỹ đoạn trên trong Tân ước
của Matthew (Mat.1: 18-24) thì chúng ta có thể thấy rằng dư luận Giê-su là đứa
con hoang từ xưa cho tới ngày nay không phải là không có cơ sở.
Thật
vậy, tại sao Matthew, một người tuy không phải là tông đồ của Giê-su nhưng rất
tin Giê-su là một Messiah của Do Thái, lại viết ra chuyện “Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng
chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn..” Vì ông ta không thể
bịt đi dư luận Mary “không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian
sự thường” đã đồn đãi rộng rãi trong thời đó, và rồi ông ta giải thích bằng
cách cho một thiên thần đến báo mộng cho Joseph biết là chính Thánh Linh đã làm
cho bụng của Mary to, một chuyện mà ngày nay nếu người nào còn tin thì gõ vào
đầu họ sẽ nghe thấy một tiếng vang. Nhưng Matthew không phải là người có trình
độ nên đã để lộ ra nhiều sơ hở rất mâu thuẫn và vô lý trong đoạn trên. Chứng
minh?
Matthew
viết: “Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính
hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với
Thánh Linh.” (King
James Version, Mat.1: 18: After His mother Mary was betrothed to Joseph, before
they came together, she was found with child of the Holy Spirit). Người ta ở
đây là ai? Tất nhiên phải là những người ở quanh vùng Mary sống. Nhưng làm sao
“người ta” lại có thể biết là Mary có mang với Thánh Linh, ngay cả trước khi
thiên sứ báo mộng cho Joseph? Rồi câu tiếp theo: “Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn
nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.” (Joseph her husband,
being a just man, and not wanting to make her a public example, was mind to put
her away secretly). Câu này cho thấy hiển nhiên là Joseph không biết là Mary có
mang với Thánh Linh như “người ta”, cũng không biết là Mary có mang với ai, và
tin rằng Mary đã lăng nhăng với người nào khác, nhưng không muốn làm to chuyện
để tránh cái nhục cho cả mình lẫn Mary. Rồi đến câu tiếp theo: “Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này,
bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con
dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là
của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó
là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.”
Chúng
ta thấy đây rõ ràng là một khung thần học do Matthew dựng lên, đúng như nhận
xét của Jane Schaberg trong cuốn The
Illegitimacy of Jesus ở trên. Vì chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của
Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và trong Tân ước không hề có chỗ nào viết
là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau
khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su sinh ra đời. Lúc này,
cả Joseph lẫn Mary có thể đã chết cả rồi. Matthew không thể là một nhân chứng
trong giấc mộng của Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của
Giê-su. Kết luận? Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần
thánh hóa người mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình. Và câu của
thiên sứ: Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa
con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội
lỗi cho
thấy mục đích của Thánh linh làm cho Mary mang thai để sinh ra Giê-su là Giê-su
chỉ có nhiệm vụ cứu dân của nó, nghĩa là dân Do Thái
mà thôi. Khi Giê-su sinh ra đời thì Do Thái đang ở trong vòng nô lệ của La Mã.
Chúng ta thấy ngay, từ cứu dân [Do Thái] của nó trở thành đấng cứu thế cho cả nhân loại chẳng
qua chỉ là mánh mưu thần học của Công Giáo để phát triển, kéo con người vào
vòng mê tín, chứ không phải là theo đúng Tân Ước, những lời mạc khải không thể
sai lầm của Chúa. Còn nữa, Công Giáo dựa vào câu trong Tân ước, Matthew 28: 19,
cho là lời của Giê-su dạy để đi truyền đạo bằng bạo lực, cưỡng bách, và những
thủ đoạn bất minh, trên khắp thế giới: “Hãy
đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân
danh Cha, Con và Thánh Thần... “ Nhưng câu này là câu mà Giê-su nói sau
khi...đã chết. Thử hỏi ngày nay có còn ai tin được chuyện thân xác Giê-su sống
lại? Các nhà thần học ngày nay cũng phải giải thích khác đi sự sống lại
(resurrection) của Giê-su và coi đó chỉ là sự sống lại về tâm linh (spiritual
resurrection). Câu trên cũng được Tin Lành tận dụng để đi truyền đạo trên khắp
thế giới, vì đối với Tin Lành, họ tin rằng Kinh Thánh không thể sai lầm, do đó
tuyệt đối tin theo từng câu từng chữ.
Chuyện
Thánh Linh có thể làm cho Mary mang thai là chuyện của 20 thế kỷ trước, trong
thời đại mà con người có thể tin vào bất cứ điều gì, dù hoang đường và vô lý
đến đâu. Trong thời đó, người ta cho rằng sinh con đẻ cái là do hạt giống trong
tinh khí của đàn ông, đàn bà chỉ là một miền đất để gieo hạt. Giáo sư thần học
Công giáo Uta Rake-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị giáo sư
thần học Công Giáo trong giáo hội, trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things), đã cho rằng
chuyện Thánh Linh làm cho Mary mang thai trở thành vô nghĩa từ khi khoa học
khám phá ra buồng trứng của phụ nữ.
Để
hỗ trợ cho sự bịa đặt của mình, Matthew đã viện dẫn một câu trong Cựu Ước để
chứng minh là sự sinh ra của Giê-su từ một nữ trinh phù hợp với một lời tiên
tri trong Cựu ước. Ông viết tiếp: “Việc
xảy ra đúng như lời God [của Ki Tô Giáo]
tiên đoán qua nhà tiên tri: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con
trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên
Chúa ở cùng ta”.”
Nhưng
chính cái chuyện Matthew định chứng minh sự sinh ra của Giê-su đúng với lời
tiên tri trong Cựu Ước này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm,
vì ông ta chỉ để hở ra cái đầu còn dấu đi cái đuôi. Ông ta lấy một câu trong
Cựu Ước, Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Giê-su sinh ra đúng như lời tiên tri
trong Cựu Ước. Ông ta biết rằng dân thường thời đó chẳng bao giờ đọc Cựu Ước,
cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong Thánh Kinh, ngoài toàn bộ
vấn đề (out of context), để giảng cho tín đồ vì biết tín đồ không bao giờ đọc
Thánh Kinh. Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ
mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Therefore the Lord
Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and bear a son,
and shall call his name Immanuel.) chẳng phải là lời tiên tri chuyện Giê-su
sinh ra đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn. Đây là trường
hợp vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc Do Thái) tấn công. Nhà
“tiên tri” Isaiah của xứ Judah
thời đó trấn an nhà vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh
bại. Khi nào? Lời “tiên tri” của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16,
nhưng Matthew đã chỉ viện dẫn Isaiah 7:14 và dấu đi hai câu sau, Isaiah 7:
15,16::
Isaiah
7: 14: Cho nên, chính Chúa sẽ cho
ngươi một dấu hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con
trai, và đặt tên nó là Immanuel.
7:15: Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi biết bỏ điều
ác chọn điều thiện.
7:16: Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều ác, chọn điều
thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị hoang vu.
Chúng
ta thấy ngay chủ đích của Matthew trong việc trích dẫn chọn lọc trên từ Cựu Ước
với mục đích truyền bá niềm tin riêng của mình. Truyền thống này kéo dài trong
giáo hội Công Giáo cho tới ngày nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân
Ước, cùng những lời diễn giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề. Thủ đoạn
này cũng thấy xuất hiện đầy trong bản Tông Huấn cho các Giáo hội Á Châu của
Giáo hoàng John Paul II. Mặt khác, Isaiah thường được coi như là một nhà đại
tiên tri trong Cựu Ước. Nhưng thực ra, Isaiah chỉ “tiên tri” láo, vì lời “tiên
tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai với sự thực nếu chúng ta đọc II
Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ Judah bị hai nước đánh bại thê
thảm như sau:
Ahaz được 20
tuổi khi lên ngôi, trị vì 16 năm tại Jerusalem..
God phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria. Quân đội Syria đánh bại
Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus.
God cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel. Quân đội Israel đánh bại
Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn. Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết một trăm hai
mươi ngàn (120000) người Judah
trong một ngày, tuy họ đều là dũng sĩ.. Và quân đội Israel
cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn bà, con trai, con gái, và
cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.
Còn
nữa, trong văn bản gốc Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah
7: 14 là “Này, một người đàn bà trẻ đang mang thai..” (a young woman is with
child) chứ không phải là một trinh nữ sẽ mang thai. Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là “người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có
chồng. Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”. Nếu Asaiah muốn nói đến một
trinh nữ thì phải dùng chữ “betulah”. Trong thời điểm mà
người Do Thái càng ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah”
thành “parthenos” trong tiếng Hi Lạp. Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong
những nghĩa này là trinh nữ. Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu
trên từ Cựu Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra
của Giê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Giê-su,
như tôi vừa chứng minh ở trên.
Cuối
cùng, câu cuối của Matthew nói lên một sự kiện rõ ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary
làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng,
đặt tên là Giê su.”
Câu này hàm ý Giê-su chỉ là đứa con đầu lòng của Mary, con của ai không rõ, vì
nếu thực sự Giê-su là đứa con duy nhất của Thánh Linh thì không thể gọi là con
đầu lòng, và Mary còn nhiều đứa con khác nữa. Vì Joseph chỉ không giao hợp với
Mary cho đến khi Mary sinh ra Giê-su. Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận
người chồng. Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Giê-su có 4
người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon?
Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the
carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And
are not his sisters here with us?). Vậy mà màng trinh của Mary vẫn còn nguyên
vẹn (perpetual virginity) cho tới bây giờ, đầu thế kỷ 21, và chắc chắn sẽ còn
nguyên vẹn vĩnh viễn trên sách vở Công Giáo. Giáo hội tìm cách giải thích quanh
co: đó là những em họ của Giê-su, hoặc là những con riêng của Joseph, để thuyết
phục đám tín đồ thấp kém, nhưng thật ra chỉ làm trò cười trong giới trí thức ở
trong cũng như ở ngoài giáo hội. Học thuật Công Giáo (Catholic scholarship) quả
thật là tuyệt vời trong việc làm tê liệt đầu óc tín đồ. Điều này chúng ta có
thể thấy rõ trong một “tác phẩm” của Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận, trước khi
ông ta được phong chức Hồng Y.
Áp
dụng thủ đoạn diễn giải Thánh Kinh lắt léo điển hình trong giáo hội, trong cuốn
Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh
Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ
xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng
Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ
nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho
những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều
người đàn bà vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học có
tính cách ngụy biện để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác
giả viết, trang 28:
Danh sách những
người [đàn
bà] tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia
phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy
tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa
Những
người tội lỗi đó là ai? Toàn là những phụ nữ mà ông Thuận gọi là “bất hợp lệ”
như Tamar, chồng chết, ngủ với em chồng, em chồng chết, “làm gái ăn sương” ngồi
bên đường chờ bố chồng rồi ngủ với bố chồng sinh con; Bathsheba, vợ của Uriah,
gian dâm với David mà Giê-su thuộc giòng giõi v..v.. Theo Tổng Giám Mục Thuận
thì tất cả những chuyện phi luân như trên đều là sự mầu nhiệm của Thiên Chúa
cả. Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể
gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ, TGM Thuận đã thể hiện sự bất lương trí thức
của mình, đặc sản của những cấp lãnh đạo Công Giáo Việt Nam do Vatican
đào tạo và phong chức. Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí
thức, dùng lý luận thần học ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những
điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà Tổng Giám Mục đã được thăng
lên chức Hồng Y trước khi chết ít lâu?
Thật
vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là gương mù như ông Thuận đã
nghĩ, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Vì ngày nay, các chuyên
gia nghiên cứu Thánh Kinh đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ
nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ
2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô
Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su.
TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang.
..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên
đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su.
Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa
ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một
huyền thoại..
Một vấn đề
trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều
thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc
thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không
thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha
của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi
Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của
Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học
giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ
đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su
đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã
cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong
nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các
vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể
là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor).
(Shorto,
Russell, Gospel Truth, Riverhead Books,
N.Y., 1997, pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing
the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed
divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around
the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of
“illegitimate”... Technically, even by the traditional reading, this charge is
true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed,
is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s
account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew
constructed an elaborate theological architecture to try to transform that
nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the
genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several
women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are
told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and
so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the
father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by
Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of
Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up
over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the
women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word,
Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating
that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be
passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was
a badge of honor...)
Trên
đây là vài điều chúng ta biết về Mary như được viết trong Tân Ước, qua sự phân
tích của một số học giả chuyên gia về Ki Tô Giáo. Còn các tín đồ Ki-tô Giáo
muốn tin Mary như thế nào, đó không phải là chuyện đáng bàn cãi. Chúng ta biết
rằng, qua thời gian, Mary đã được Giáo hội Công Giáo, qua rất nhiều thủ đoạn,
từ những sắc lệnh của Giáo Hoàng cho đến những văn kiện ngụy tạo v..v.., dựng
lên từ một người đàn bà Do Thái bình thường thành một biểu tượng sùng bái vô
tiền khoáng hậu cho các tín đồ vốn lười suy nghĩ hay không có đầu óc thuộc loại
có thể suy nghĩ. Sự sùng bái Mary được đẩy mạnh qua rất nhiều thủ đoạn mánh mưu
của Giáo hội Công Giáo với sự góp sức của giới chăn chiên để bảo vệ quyền lợi
của Giáo hội và giới chăn chiên, và nhất là để vơ vét của cải. Một trong những
thủ đoạn này là dựng lên những chuyện hiện thân của Mary, không phải là sự hiện
thân của một người đàn bà Do Thái bình thường, sinh ra đứa con hoang Giê-su như
chúng ta thấy trong phần phân tích ở trên, mà là dưới các danh hiệu do Giáo hội
đặt ra như Mẹ Thiên Chúa (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate
Conception), “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual
Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix)
v..v... Điều này thật là dễ hiểu. Vì Giáo hội Công Giáo đã nâng Giê-su lên từ
một đứa con hoang, tầm thường, xấu tính lên làm Chúa thì tất nhiên Mẹ của Chúa
cũng phải có một vai vế đặc biệt để hấp dẫn tín đồ. Thật vậy, Russell Shorto
viết trong cuốn Sự Thật Phúc Âm, trang 14, như sau:
Điều quan trọng
nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả,
ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải
đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các
học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác
hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều
thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con
chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó,
những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Most
important, the impact of the scientific perspective is having now that even
scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of
what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was
nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to
generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks
because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are
ordinary Christians.)
Và
Giám Mục John Shelby Spong,, cũng viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Kinh Thánh Ra khỏi Phái Ki-Tô Bảo Thủ (Rescuing The Bible
From Fundamentalism, p. 21) như sau:
Có những đoạn
trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth
như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
There
are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded,
vindictive, and even hypocritical.
Một
người như Giê-su như trên, một anh thợ mộc con bà Mary [không phải là con của
chồng là Joseph], mà được nâng lên làm Chúa của Ki-Tô Giáo thì một người như
Mary, Mẹ của Giê-su, mà chúng ta vừa biết qua vài điều như trên được gán cho
những danh hiệu thần thánh và hoang đường như trên đâu có phải là chuyện lạ.
Đến đây, chúng ta hãy sang phần phân tích những vụ hiện thân của Mary.
Chúng
ta đã biết, Giáo Hoàng John Paul II và đa số tín đồ Gia Tô rất sùng tín đức Mẹ
Maria. Đó là quyền tự do tín ngưỡng cá nhân. Nhưng lợi dụng lòng sùng tín này
cho những mục đích chính trị và kinh tế thì Giáo hội đã đi vào con đường thế
tục, không phải con đường tâm linh tôn giáo. Chúng ta hãy tìm hiểu về thực chất
những màn ảo thuật như đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha, ở Lourdes, Pháp, và
nhiều nơi khác trên thế giới. Trong cuốn sách này tôi chỉ bàn đến hai địa danh
nổi tiếng nhất là Fatima và Lourdes,
nơi đây tín đồ Gia Tô tin rằng đức Mẹ Maria đã hiện thân và phó thác những
"thông điệp siêu nhiên" (supernatural messages) cho một vài trẻ em
thất học. Còn chuyện Đức Mẹ hiện thân ở La Vang, gần Quảng Trị, chỉ là những
lời truyền khẩu vô căn cứ, không hợp lý và chứa nhiều mâu thuẫn, cho nên tôi sẽ
không đi sâu vào vấn đề.
7.1. Huyền Thoại Fatima.
Chúng
ta có thể đọc huyền thoại Fatima trong nhiều
cuốn sách đã xuất bản. Sau đây là một đoạn trong cuốn Vietnam: Why
Did We Go của Avro Manhattan, trg. 26-27:
"
Năm 1917, cũng là năm của cuộc cách mạng Nga sô, Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ
Đào Nha, trước 3 em nhỏ chăn cừu mù chữ, (lên 10, 9, và 7 tuổi. TCN).
Đức
Mẹ hiện ra kèm theo một hiện tượng lạ lùng: Mặt trời quay tít ba lượt, rồi nhảy
ra khỏi quỹ đạo, tiến gần đến trái đất theo một đường gẫy khúc, ngưng lại, rồi
trở về vị trí cũ.
Hiện
tượng này được nhiều người đứng gần các em nhỏ trông thấy và kéo dài trong 12
phút. Thông điệp của Đức Mẹ trao cho mấy em nhỏ là: "Giáo hoàng phải hiến
dâng thế giới cho trái tim vô nhiễm của mẹ," và rồi "phải hiến dâng
Nga Sô cho Mẹ." Mẹ tiên đoán, "Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia Tô La Mã
Giáo," và Đức Thánh Cha sẽ "hiến dâng Nga sô cho Mẹ." Mẹ cảnh
cáo, nếu những điều Mẹ rao truyền không thực hiện được thì "những sai lầm
của Nga Sô sẽ lan ra khắp hoàn cầu, gây nên chiến tranh và bách hại giáo dân,
và nhiều quốc gia sẽ bị tàn phá." Cuối cùng Mẹ an ủi rằng "Giáo hội
Gia Tô sẽ thắng, sau đó Giáo hoàng sẽ hiến dâng Nga Sô cho Mẹ, Nga Sô sẽ cải
đạo, và thế giới sẽ được hưởng một thời kỳ hòa bình."
Những
lời trên đây là những thông điệp chân thực của Maria đồng trinh, như một em nhỏ
kể lại và được giáo hội Gia Tô hoàn toàn chấp nhận như là điều mặc khải xác
thực của "Mẹ Chúa"."
(Our
Lady of Fatima had first appeared to three illiterate children in Fatima, a
desolate locality in Portugal,
during the fateful year of 1917, which was also the year of the Russian
Revolution.
Her
apparition had been accompanied by a somewhat strange miracle: "The sun
turned speedily on itself three times..At the end of these convulsive
revolutions it seemed to jump out of its orbit and come forward towards the
people on a zig-zag course, stopped, and returned again to its normal position.
This was seen by a large crowd near the children and lasted twelve minutes.
The
Virgin's messages had been to induce the pope to bring about "the
consecration of the World to her Immaculate Heart," to be followed by
"the consecration of Russia".
"Russia
will be converted," she foretold. "The Holy Father will consecrate Russia to
me." But, she warned, should this not be accomplisshed, "her (Russia's)
errors will spread throughout the world, causing wars, and
persecutions...different nations will be destroyed..." In the end however,
the Virgin promised by way of consolation, that the Catholic Church would
triumph, after which "the Holy Father will consecrate Russia to me.
Thereupon she (Russia)
shall be converted and a period of peace will be granted to the world."
These
quotations are from the authenticated messages of the Virgin Mary herself, as
related to one of the children and fully accepted by the Catholic Church as a
genuine revelation by the "Mother of God".)
Nghiên
cứu về hiện tượng Fatima ở trên, các học giả
đã kiếm ra nhiều điều vô lý, không hợp với ngay cả một sự hiểu biết thông
thường.
Thứ
nhất, Đức Mẹ là mẹ của Chúa, mà Chúa thì "toàn năng", "sáng
tạo" ra vũ trụ bao la và muôn loài, vậy thì tại sao Đức Mẹ lại cần đến một
ông Giáo hoàng rất thế tục để dâng hiến thế giới vô cùng nhỏ nhoi của con người
cho Mẹ? Mẹ có lẩm cẩm không?
Thứ
nhì, Mẹ tự khoe là mình có trái tim vô nhiễm, như vậy là Mẹ đã cùng với những
tín đồ vô học chỉ nhắc lại một tín lý của Giáo Hoàng Pius IX mới đưa ra năm
1854 và bắt mọi tín đồ phải tin. Vậy trước năm 1854, nghĩa là trước khi Giáo
Hoàng Pius IX đưa ra tín lý "vô nhiễm" thì Mẹ có vô nhiễm không?
Thứ
ba, những từ như "Giáo hoàng" hay "Đức Thánh Cha" là những
từ Giáo hội đặt ra về sau để thần thánh hóa vai trò của Giáo chủ Gia Tô, chứ
thời của Mẹ cách đây 2000 năm không làm gì có những từ này. Bảo rằng Mẹ có
quyền phép vô biên, cái gì cũng biết, thì lại đưa đến một mâu thuẫn. Nếu đã
quyền phép vô biên thì tại sao phải nhờ đến một ông Giáo hoàng chống Cộng cho
Mẹ? Mẹ chỉ cần phù phép một cái là cả nước Nga bỏ Chính Thống Giáo đi theo Gia
Tô Giáo, hay là giáng họa cho dân Nga chết hết là hết Cộng. Sau khi Mẹ đã khẳng
định là "Đức Thánh Cha" sẽ dâng hiến Nga sô cho Mẹ và Nga sô sẽ cải đạo
theo Gia Tô Giáo, Mẹ lại phải cảnh cáo: "Nếu không thực hiện những thông
điệp của Mẹ thì....". Tại sao lại có vụ dọa dẫm này? Mẹ không tin ở quyền
phép của Mẹ, hay là không tin ở khả năng của Giáo hoàng, cho nên Mẹ phải dọa
như vậy để giáo dân sợ mà hồ hởi chống Cộng? Nói tóm lại, nội dung những
"thông điệp siêu nhiên" của Mẹ chẳng qua chỉ là những lời bịa đặt của
những người trong hàng Giáo phẩm không được thông minh cho lắm vì nghe rất rẻ
tiền, vô lý và mâu thuẫn, nhưng lại có tác dụng khích động đám tín đồ đầu óc
chắc chắn là kém thông minh hơn các vị trong hàng Giáo phẩm nhiều.
Thứ
tư, thông điệp của Đức Mẹ rao truyền cho mấy em nhỏ thất học là một thông điệp,
như đã nói ở trên, sặc mùi...chống Cộng. Trí tuệ của mấy em nhỏ mù chữ lên 10,
9, và 7 tuổi đã phát triển chưa, và các em đã hiểu gì về Cộng Sản? Trí nhớ của
các em như thế nào? Phải chăng các thông điệp của Đức Mẹ thật ra là của Giáo
hội đưa ra? Tại sao Đức Mẹ lại phải chống Cộng vì Cộng cũng là do con Mẹ sinh
ra? Bảo rằng Mẹ chống vì CS tàn ác thì tại sao trước những hành động tàn bạo
của Giáo hội Gia Tô đối với nhân loại như tiêu diệt các nền văn hóa khác, gây
ra những cuộc Thánh Chiến, các tòa hình án xử dị giáo, làm chết hại bao nhiêu
triệu người v...v.., Mẹ không hiện ra mà chống? Hay là Mẹ về phe Giáo hội đã
vinh danh Mẹ qua những hành động tàn ác kể trên?
Thứ
năm, những lời tiên đoán của Mẹ sai bét. Hai cuộc Thế Chiến không do Nga Sô gây
ra mà do các con Mẹ ở Tây phương gây ra tàn sát lẫn nhau. Và ngày nay, tuy chế
độ Cộng sản ở Nga đã sụp đổ, Nga sô cũng không cải đạo theo Gia Tô Giáo. Trái
lại, cơ quan lập Pháp của Nga sô còn đưa ra nghị viện điều luật "đặt Gia
Tô La Mã Giáo" ra ngoài vòng pháp luật (nhưng lại công nhận Phật Giáo là
một trong những tôn giáo chính thức ở Nga) khiến cho John Paul II hoảng sợ,
phải cầu cứu với Tổng Thống Nga là Yetsin để hoãn thông qua đạo luật này.
Thứ
sáu, hiện tượng lạ lùng về mặt trời kể trên hoàn toàn phản khoa học. Mặt trời
không thể nào nhảy ra ngoài quỹ đạo như vậy mà không làm nhiễu loạn cả Thái Dương
Hê, và không ai có thể nhìn thẳng vào mặt trời trong 12 phút mà không bị hư hẳn
đôi mắt, trường họp này đã xảy ra ở vài nơi trên thế giới khi tín đồ tin vào
lời tiên đoán "Đức Mẹ hiện ra" tương tự như ở Fatima và nhìn thẳng
lên mặt trời, của vài tên lái buôn tôn giáo, chưa kể là hơn hai tỷ người trên
thế giới khi đó không hề nhìn thấy hiện tượng mà Giáo hội cho rằng đã xẩy ra.
Chỉ có những người không biết gì về khoa học, nhất là về môn Cơ học các thiên
thể (Celestial mechanics) mới dám bịa ra cái hiện tượng không thể nào xẩy ra
này.
Nhưng
những điểm vô lý kể trên cũng chẳng làm cho Giáo hội bận tâm, Giáo hội chỉ cần
tín đồ tin là được rồi, như Monsignor Sheen đã tuyên bố năm 1947, sau một diễn
văn chống Cộng (Blanshard, Ibid., trg. 228):
"Chúng
tôi không quan tâm đến việc chứng minh tính cách xác thực của những hiện tượng
xẩy ra ở Fatima, vì những ai tin ở cảnh giới tâm linh và Mẹ của Chúa thì không
cần đến chứng minh, còn những ai bác bỏ Thánh Linh thì đằng nào cũng không chấp
nhận rồi."
(We
are not concerned about proving the authenticity of these phenomena at Fatima, for those who believe in the realm of the spirit
and the Mother of God need no proof, and those who reject the Spirit would not
accept it anyway.)
Tại
sao con người lại có thể tin vào những chuyện vừa hoang đường, vừa phi lý, vừa
phản khoa học một cách ấu trĩ như vậy? Chúng ta nên nhớ rằng, ở Việt Nam, sau
hiệp định Geneva, 1954, thì khoảng 6, 7 trăm ngàn giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm
v..v.., đã cho chúng ta thấy cảnh: "giám mục, linh mục chạy trước, con
chiên chạy sau." Chạy đi đâu? Chạy vào Nam theo Đức Mẹ và Chúa Giê su, vì
theo kế hoạch tuyên truyền của Lansdale, tin Đức Mẹ và Chúa Giê su đã di cư vào
Nam trước rồi, được tung ra một cách rất ngoạn mục và thành công. Vậy thì đầu
óc của những tín đồ Gia Tô, nhất là những tín đồ Gia Tô ở Việt Nam, thuộc loại
có thể tin vào bất cứ điều nào mà Giáo hội nói, bất kể những điều này phi lý
đến đâu. Giáo hội biết rõ như vậy cho nên mới có thể khai thác triệt để những
đầu óc thuộc loại này. Về sự việc này, Linh mục Trần Tam Tĩnh có viết trong
cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm, về cuộc di cư vào Nam của người Gia Tô miền Bắc như
sau, trg. 103-104:
"Trước
tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy năm gần đây đã được tăng
cường, qua việc thành lập Đạo Binh Đức mẹ, Đạo Binh Xanh, Hiệp Hội Chiến Sĩ Đức
Mẹ. Tất nhiên Đức Mẹ được giao cho chức năng chính trị để giải thoát những kẻ
tôn sùng Người. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để ra
lệnh cho giáo dân đi vào Nam, bởi vì Mẹ cũng bỏ miền Bắc Việt Nam. "Việc
hiện ra" hình như đã được dàn dựng tài tình bởi một linh mục, ông đã mặc
áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng vào sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima.
Trước mấy cây nến tung ánh lung linh, một vài nhà "đạo đức" coi đó là
Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng (trước khi
hiện ra ở La Vang rồi Ba Làng, Đức Mẹ người Do Thái đã đi học một cua tiếng
Việt VSL (Vietnamese as a Second Language) ở trường thuộc địa Pháp tại Hà Nội;
TCN), phải từ bỏ đất Cộng Sản bất cứ với giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự
do. Đức Mẹ sắp sửa bỏ miền Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một
vết dầu loang được thêm thắt những nét chấm phá mới, kèm theo những lời tiên
tri mới, hoặc những điềm gở tiên báo tai ương sắp đổ tới..
"Chạy
trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin", "Chúa Ki Tô đã đi vào
Nam", "Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt", những khẩu hiệu phi lý dó làm
cho người Ki Tô hữu phương Tây phải cười, nhưng lại có tác dụng rất lớn nơi một
cộng đồng Ki Tô hữu đã từng bị giam nhốt xưa nay trong sự ngu dốt và trong một
niềm tin đạo nói được là thới Trung cổ. Trong cái ốc đảo khép kín đó của giáo
dân, những gì gọi là "Bí Mật của Đức Mẹ Fatima" đều được coi như là
tín điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa vào một mớ tài liệu tuyên truyền nhảm
nhí."
Nhảm
nhí như thế nào? Nghiên cứu về sách lược của Giáo hội Gia Tô và những sự kiện
xảy ra sau hiện tượng Fatima, các học giả đã tìm ra nhiều điều thậm phi lý,
phản khoa học, không thể giải thích nổi, và hiện tượng Fatima đã được Giáo hội
đưa ra, ngoài mục đích tôn giáo còn có những mục đích chính trị và kinh tế, .
Thật vậy, trong cuốn Vietnam: Why Did
We Go,
Avro Manhattan viết như sau, trg. 28...:
"Sự
sùng bái ở Fatima, đặt nặng trên lời hứa của Maria đồng trinh là Nga Sô sẽ cải
đạo theo Gia Tô La Mã Giáo, đã được Vatican
thổi phồng đến tột đỉnh. Năm 1938, Giáo hoàng phái một sứ giả tới Fatima để
loan báo cho gần một triệu tín đồ đang hành hương nơi đó là Maria đồng trinh đã
phó thác cho ba đứa trẻ ở Fatima ba bí mật
lớn. Và rồi, tháng 6 năm đó, đứa trẻ duy nhất còn sống, được ông linh mục nghe
xưng tội cố vấn, linh mục này luôn luôn tiếp xúc với hệ thống quyền lực Gia Tô
và do đó với Vatican, nên tiết lộ nội dung của hai trong ba điều bí mật trên.
Điều
bí mật thứ nhất là cảnh tượng của hỏa ngục (cái mà thế giới hiện đại đã biết
rõ)
Điều
bí mật thứ hai đi thẳng vào trọng điểm: nhắc lại là Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia
Tô La Mã Giáo.
Điều
bí mật thứ ba để trong một bao thư niêm kín và đặt dưới quyền xử dụng của hàng
Giáo phẩm Gia Tô, không được tiết lộ cho tới năm 1960.
Sự
lập lại điều bí mật mặc khải thứ hai về sự cải đạo của Nga Sô có một ý nghĩa
chấn động tôn giáo và chính trị. Giáo hội đã chọn một thời điểm rất đúng lúc để
tiết lộ bí mật này. Những lực lượng độc tài Phát xít cũng đang chủ trương tiêu
diệt Nga Sô.
Năm
sau, 1939, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Năm 1940, Pháp bại trận. Toàn thể Âu Châu
rơi vào quyền thống trị của Phát xít. Năm 1941, Hitler xâm lăng Nga Sô. Sau
cùng, lời hứa của Maria đồng trinh hầu như sắp sửa thành tựu. Tại Vatican, mọi
người đều hồ hởi, Pacelli đã trỏ thành Giáo hoàng Pius XII (1939)..
Pius
XII khuyến khích tín đồ Gia Tô tình nguyện đi chiến đấu ở mặt trận Nga Sô. Tín
đồ Gia Tô - hầu hết là những người sùng tín Maria đồng trinh - từ Ý, Pháp, Ái
Nhĩ Lan, Bỉ, Hòa Lan, Châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ và Bồ Đào Nha, đầu quân vào những
đoàn quân của Đức Quốc xã. Tây Ban Nha tham gia một sư đoàn có tên là Sư Đoàn
Gia Tô Xanh Lơ .
Tháng
10, 1941, trong khi những đoàn quân Đức quốc xã tiến gần tới Moscow (thủ đô Nga
Sô), Pius XII, trong một huấn thị ở Bồ Đào Nha, thúc đẩy tín đồ Gia Tô hãy cầu
nguyện dể cho lời hứa của Maria ở Fatima mau thực hiện.
Năm
sau, 1942, sau khi Hitler tuyên bố rằng Cộng Sản Nga Sô đã "dứt
khoát" bị đánh bại, Pius XII, trong một thông điệp hồ hởi, theo huấn thị
thứ nhất của Maria đồng trinh, "dâng hiến cả thế giới cho Trái Tim Vô
Nhiễm của Maria"
...Đế
quốc Phát xít tan biến với sự sụp đổ của Hitler. Năm 1945 Đệ Nhị Thế Chiến chấm
dứt. Trước sự kinh ngạc và đau buồn của Pius XII, Nga Sô đã trở thành cường quốc
thứ nhì trên trái đất."
(The
cult of Fatima, with emphasis on the Virgin's promise to Russia's conversion, had been given immense
prominence by the Vatican.
In 1938, a papal nuncio was sent to Fatima,
and almost half a million pilgrims were told that the Virgin had confided three
great secrets to the children. Thereupon, in June of that year, the only
surviving cvhild - advised by her confessor, always in touch with the hierarchy
and hence with the Vatican
- revealed the contents of two of the three great secrets.
The
first was the vision of Hell (something well known to the modern world).
The
second was more to the point: a reiteration that
Soviet
Russia
would be converted to the Catholic Church. The third was sealed in an evelope
and put in custody of the ecclesiastical authority not to be revealed until
1960.
The
dramatic reiteration of the revelation of the second secret about Soviet Russia
immediately assumed a tremendous religious and political significance. The
timing of the "disclosure" could not have been better chosen. The
fascist dictatorship were talking the same language: the annihilation of Soviet
Russia.
The
following year, 1939, the Second World War broke out. In 1940, France was
defeated. The whole Europe had become fascist.
In 1941, Hitler invaded Russia.
The Virgin's prophecy at long last was about to be fulfilled. At the Vatican there
was rejoicing, since by now Pacelli had become pope under the name of Pius XII
(1939).
Pius
XII encouraged Catholics to volunteer for the Russian front. Catholics - most
of them devotees of the Virgin of Fatima - joined the nazi armies, from Italy,
France, Ireland, Belgium, Holland, Latin America, the US and Portugal. Spain sent a
Catholic Blue Division.
In
October 1941, while the nazi armies rolled near Moscow,
Pius XII, addressing Portugal,
urged Catholics to pray for a speedy realization of the Lady od Fatima's
promise.
The
following year, 1942, after Hitler had declared that communist Russia had been
"definitely" defeated, Pius XII, in a Jubilee Message, fulfilled the
first of the Virgin's injunction and "consecrated the whole world to her
Immaculate Heart."
...The
fascist empire vanished with the collapse of Hitler. In 1945, World War II
ended. And Soviet Russia, to the chagrined surprise of Pope Pius XII, emerged
the second greatest power on earth.)
Đó
là thực chất hiện tượng Fatima, một "phép
lạ" mà đại đa số tín đồ Gia Tô ít học trên toàn thế giới rất tin. Họ không
hề để tâm suy nghĩ là lời hứa của Maria đồng trinh (thực ra là của Giáo hội)
giao phó cho những em bé thất học, rút cục chỉ là những điều mơ ước không thành
của Giáo hội. Nhưng đa số tín đồ Gia Tô hoàn toàn không biết gì về những mưu đồ
chính trị đằng sau hiện tượng Fatima, cho nên họ vẫn tin rằng Đức Mẹ đã thực sự
hiện ra ở Fatima, và tâm cảnh sùng tín Đức Mẹ
ngày càng gia tăng. Khai thác sự "ngu dốt trong những ốc đảo khép kín đó
của giáo dân", Giáo hoàng Pius XII bèn đi thêm một bước ngoạn mục khác.
Năm
1950, Giáo hoàng Pius XII tiết lộ rằng chính đức Mẹ đã đích thân đến thăm viếng
ông tại Vatican.
Năm sau, 1951, Ông tổ chức một cuộc hành hương vĩ đại tại Fatima
gồm hơn 1 triệu tín đồ. Rồi ông phái một vị Hồng y thân cận nhất, Tedeschini,
đến Fatima với nhiệm vụ loan báo cùng các tín đồ đi hành hương ở Fatima là đức Mẹ đã đến thăm ông. Avro Manhattan mô tả sự
việc trên như sau (Ibid., trg. 39):
"Thế
rồi một ngày trong tháng 10, 1951, Hồng Y Tedeschili, đứng trước đám đông tín
đồ, với một giọng nói đầy xúc cảm, long trọng tiết lộ với những tín đồ đi hành
hương Fatima rằng: "Một người khác đã chứng kiến cùng một phép lạ"
(nghĩa là phép lạ khi Maria đồng trinh hiện thân trước ba đứa trẻ năm 1917, mặt
trời đi theo đường gẫy khúc ở trên trời). Hồng Y nói tiếp: "Ông ta (Giáo
hoàng Pius XII) đã nhìn thấy hiện tượng đó, không phải ở Fatima.
Thật vậy, ông ta đã nhìn thấy hiện tượng đó nhiều năm sau, ở La Mã. Giáo hoàng,
chính Pius XII, đã nhìn thấy thế." Rồi Hồng Y kể thêm vài chi tiết liên hệ
đến phép lạ trên: "Một buổi chiều ngày 30 tháng 10, 1950, hồi 4 giờ, Đức
Thánh Cha từ khu vườn trong Vatican nhìn lên mặt trời (chỉ có người không biết
gì về mặt trời mới nhìn thẳng lên mặt trời; TCN) và thấy hiện tượng kỳ lạ ở
thung lũng Fatima tái diễn. Hiện tượng kỳ lạ nào? Sau đây là nguyên văn lời của
vị Hồng Y, người được Giáo hoàng Pius XII đặc phái tới Fatima
để tiết lộ cho thế giới biết như sau:
"Giáo
Hoàng Pius XII đã đích thân nhìn thấy đời sống của mặt trời (Tác giả xin nhắc
độc giả rằng: Mặt trời là một khối cầu lửa vĩ đại, đường kính vào khoảng 1
triệu 3 trăm 85 ngàn cây số (866.000 miles)) trong tay của Maria. Mặt trời dao
động, rối loạn và biến đổi thành một hình ảnh sống trong một chuyển động ngoạn
mục trên trời.. trao truyền cho vị đại diện của Chúa những thông điệp thầm lặng
nhưng hùng hồn.
Hiện
tượng này không chỉ xảy ra một lần, mà trong ba ngày liên tiếp, ngày 30, 31
tháng 10, và 1 tháng 11, 1950."
(And
so it came to pass that one October day, Cardinal Tedeschili faced the massive
crowd, and in a voice filled with emotion, solemnly disclosed to the astonished
pilgrims that "another person has seen this same miracle..." (namely
the miracle of the Virgin Mary appearing to the three children in 1917, when
the sun zig-zagged in the sky). "He saw it outside Fatima,"
the Cardinal went on to say. "Yes, he saw it years later. He saw it at Rome. The pope, the same
our pontiff, Pius XII...yet he saw it." The cardinal then gave a few
relevant details concerning when and how the miracle occurred. "On the
afternoon of October 30th, 1950, at 4 p.m.," said the cardinal, (that is
three months after Catholic Mathews delivered this preventive atomic war
speech), "the Holy father turned his gaze from the Vatican gardens to the
sun, and there...was renewed for his eyes the prodigy of the Valley of
Fatima." And what was the prodigy?
Here
are the exact words of the cardinal, sent there specifically by Pope Pius XII
himself to disclose the story to the world:
"Pope
Pius XII was able to witness the life of the sun (author's reminder: a huge
burning sphere 866,000 miles in diameter)..under the hand of Mary. The sun was
agitated, all convulsed, transformed into a picture of life...in a spectacle of
celestial movements...in transmission of mute but eloquent messages to the
Vicar of Christ."
This
did not occur once, but on three successive days: October 30 and 31 and
November 1, 1950.)
Khi
nghe tin trên, hầu như cả thế giới, trong đó có một số trí thức Gia Tô, mỉm
cười lắc đầu, vì chuyện này cũng tương tự như chuyện trong Thánh Kinh: trăng
sao là những ngọn đèn mà tối tối Chúa sai thiên thần mang ra treo trên vòm
trời. Nhưng đám tín đồ "tin ở một vị Giáo hoàng, người tự nhận là không
thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao", thì lại cảm thấy rất hồ hởi khi
nghe tin trên, vì đó là dấu hiệu nhắc lại lời hứa của bà Maria khi xưa ở Fatima
về Nga sô cải đạo thành Gia Tô La Mã,ỵ đã sắp sửa thành tựu. Tôi thì tôi cho
rằng mấy ngày đó Đức Thánh Cha uống rượu lễ hơi nhiều, nếu thực sự ông nhìn
thấy hiện tượng kỳ lạ trên, trong khi mấy tỷ người trên thế giới không ai nhìn
thấy. Thật ra, chuyện Giáo hoàng bày đặt ra chuyện hoang đường để dụ dỗ đám tín
đồ đầu óc vốn mù mịt, và chuyện các tín đồ tin vào những chuyện phi lý như
trên, là những chuyện thuộc về tín ngưỡng trong Gia Tô giáo. Đối với tôi, những
tín đồ thuộc loại trên đáng thương chứ không đáng trách. Chúng ta không thể
trách họ vì sự thiếu hiểu biết của họ. Đáng trách chăng là những thủ đoạn khai
thác sự thiếu hiểu biết của quần chúng tín đồ mà Giáo hội dùng trong những mục
đích chính trị nhơ bẩn, và trong những mục đích kinh tế để làm giầu cho Giáo
hội trong khi quần chúng tín đồ vẫn nghèo khổ mà lại tiêu phí vào những việc
không đâu, vì tin vào những lời tuyên truyền giả dối của Giáo hội. Thật vậy,
chúng ta hãy đọc vài đoạn sau đây của học giả Paul Blanshard (Ibid., trg.
225-226):
Đức Ông John L.
Belford, một trong những vị lãnh đạo Gia Tô nổi tiếng ở Brooklyn, phàn nàn về
sự kiện là một vài đền thờ (ở những chỗ Giáo hội cho rằng Maria đã hiện ra) đã
"gợi lòng tham, một trong những đặc tính điên rồ của con người" và
lên án "tính cách thương mại xung quanh những đền thờ." Ông nói:
"Thật là khó phân biệt giữa sùng đạo và mê tín, nhưng có những nơi trong
quốc nội cũng như ở ngoại quốc mà sự sùng đạo được thực hành và quảng cáo như
là một cách làm tiền... Những tín đồ Gia Tô lấy làm xấu hổ, và những người
phi-GiaTô cảm thấy kinh tởm...Sự dùng những Thánh tích, lẽ dĩ nhiên, được giáo
hội chấp thuận. Trong việc xử dụng những Thánh tích, chúng ta dạy về một đức
tin hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng ghê tởm, khinh miệt và lên án cách hành nghề
kiểu một tay đưa ra Thánh tích, còn tay kia thì vơ tiền.."
Trong những năm
gần đây, giáo hội đã đem mục dích chính trị thêm vào những sắc thái khác mà
giáo hội quảng cáo về những đền thờ Maria. Trong hai đền thờ Maria lớn nhất
trên thế giới ngày nay, đền thờ ở Lourdes trên nước Pháp và ở Fatima, Bồ Đào
Nha, được dựng lên như là các nơi thiêng liêng vì Maria đồng tring đã viếng
thăm trái đất tại các nơi này, đền thờ nổi tiếng hơn, Fatima, ngày nay được
giáo hội xủ dụng chính yếu như là một biểu tượng xúc cảm trong cuộc chiến chống
Cộng. Đền thờ nổi tiếng nhất ở Tây Bán Cầu, ở Guadalope, nay được dùng như là
một vũ khí chống các trường học công cộng ở Mễ Tây Cơ (Giáo hội phản đối
các trường công, muốn rằng nền giáo dục Mễ Tây Cơ phải do các trường Gia Tô chỉ
đạo; TCN)
...
Gần đây, những pho tượng "Đức Mẹ
ở Fatima" đã được mang đi diễn hành ở Âu Châu và Mỹ châu, phô trương rầm
rộ và được các báo Gia Tô tường thuật chi tiết. Mỗi pho tượng đi tới đâu đều có
những "phép lạ" hiện ra tới đó.
Hầu như mọi
thông tin quảng cáo về những pho tượng này đều kết hợp phép lạ ở Fatima với chiến dịch chống Cộng của Giáo hội. Giới trí
thức Gia Tô cảm thấy hổ nhục vì sự khai thác chính trị này. Trí thức Gia Tô
không bắt buộc phải tin những chuyện Maria hiện thân mà giáo hội đưa ra chừng
nào mà họ không công khai bác bỏ những truyền thuyết có tính cách linh cảm
này."
(Monsignor
John L. Belford, one of Brooklyn's most noted
Catholic leaders, deplored the fact that some shrines "have appealed to
the greed which is one of the foul characteristics of human nature," and
condemned the "commercialism which surrounds shrines." He said:
"It is not easy to draw the line between devotion and superstition, but
there are places at home and abroad where devotion are practiced and promoted
as a mean to gather money...Catholics are ashamed and non-Catholics are horrified...The
use of relics is, of course, approved by the Church. In that use we profess
unqualified faith, but we do loathe, despise and comdemn the contemptible
practice of applying the relic with one hand and collecting money with the
other."
...In
recent years the hierarchy has added political purpose to other features of its
shrine promotion. Of the two greatest shrines in the world today, the French
Lourdes and the Potuguese Fatima, made sacred by visits of the Virgin Mary to
the earth, the more fmous one, Fatima, is now
used by the Church chiefly as an emotional symbol in the war against communism.
The most famous shrine in the Western hemisphere, Guadalope, is being used as a
weapon against Mexican public schools.
...Recently
"Fatima statues" have been circulated in Europe and America with
enormous public fanfare and detailed report in the Catholic press. Each statue
during its journey has had many "miracles reported along its path."
...Virtually
all publicity about the statue has coupled the miracle of Fatima
with the Church's drive against communism... Many Catholic intellectuals are
shame-faced about this political exploitation of apparition...Catholic
intellectuals are not bound by the rules of their Church to take the apparition
stories seriously as long as they do not repudiate the inspiring legends
publicity.)
7.2. Huyền Thoại Lourdes.
Sự
thật về "phép la" ở Fatima là như vậy, thế cònì sự thật về "phép
lạ" ở Lộ Đức (Lourdes)
ra sao? Chúng ta có thể tìm thấy chi tiết trong cuốn Lộ Đức: Sự thật về những
cái thấy của Bernadette. Tính cách thương mại của hang đá (Lourdes)
(Lourdes: La
Vérité sur les Visions de Bernadette. Le mercantilisme de la Grotte), của André
Lorulot . Sau đây tôi xin trích dẫn những đoạn quan trọng về cái gọi là
"phép lạ" ở Lourdes.
"Giáo hội
có những phương tiện quyền thế để truyền bá những chuyện không tưởng. Giáo hội
phát hành hàng triệu cuốn sách chứa đầy những lời dối trá trắng trợn và những
sai lầm cố ý.
Thí dụ, cuốn
sách nổi tiếng của Henri Lasserre viết về Đức Mẹ ở Lộ Đức đã được phát hành tới
một triệu cuốn. Thực ra, văn phẩm thuộc loại đó chỉ nhằm những người trí tuệ
thô thiển. Đó là tác phẩm của một tín đồ mù quáng và cuồng tín.
Một Linh mục
dòng Tên, ông Cros, thú nhận rằng"cái mớ tài liệu đưa cho Henri Lasserre
ngày trước " thực sự trống rỗng. "Không có gì trong đó có thể dùng để
viết một cách xác thực về câu chuyện hiện thân của Đức Mẹ."
Larrerre giới
thiệu Francois Soubirous (cha của Bernadette) như là một con người gương mẫu.
Trái lại, Linh mục Cros biết rõ rằng, đó chỉ là một tên nghiện rượu, mang tiền
của gia đình đi la cà tửu quán uống rượu, vào tháng 3, 1858, đã bị tù vì tội ăn
cắp.
Em nhỏ
Bernadette Soubirous, con gái tên nghiện rượu kể trên, cùng với vài đứa bạn đi
kiếm củi.
Khi tới gần cái
hang, em nhìn thấy một người đàn bà đẹp "không giống người nào trên trái
đất" mỉm cười. Em quỳ xuống. Người đàn bà kia tay làm dấu Thánh giá.
Chủ nhật tới,
em trở lại cái hang trên cùng mấy đứa bạn. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện. Sau
một hồi, mặt Bernadette rạng rỡ lên. Em lại thấy người đàn bà áo trắng kia xuất
hiện. Các bạn em không ai thấy cả nhưng xúc động trước cảnh tượng ngây ngất
xuất thần của em bé chăn cừu (Bernadette).
Người đàn bà mà
Bernadette nhìn thấy trong hang cũng đọc riêng cho em ba điều bí mật. Người ta
đã không tiết lộ ba điều bí mật này.
Làm sao mà
Bernadette có thể nhớ được những điều trên (giả thử có người thực sự đọc cho em
điều gì đó)? Trí nhớ của em nhỏ đáng thương kia rất kém cỏi đến độ em không thể
nhắc lại cho đúng hai tiếng "Immaculée Conception" (Thụ thai vô
nhiễm).
Bernadette đã
mang tới một mảnh giấy và một cái bút chì để Đức Mẹ đồng trinh viết. Nhưng
"Bà" đã lẩn tránh, không viết và thật là đáng tiếc. Chúng ta đã có
thể có được một văn kiện tỉ mỉ, chắc chắn là đáng tin cậy hơn là những lời tả lại
của em bé nhà quê. Nhưng Bernadette không biết viết, và đó là lý do, lý do duy
nhất, bắt em phải trình lại mảnh giấy còn trinh nguyên.
"Hãy nói
với những Linh mục là phải xây một nhà thờ ở đây và mọi người phải diễn hành
đến đó."
Những lời trên,
theo Bernadette, là của người đàn bà đã xuất hiện, không thể làm các ông Linh
mục phật ý. Tới đây, âm mưu đã rõ rệt.
Khi người ta
làm cho Đức Mẹ phát ngôn thì, do một sự trùng hợp khó xử, bao giờ cũng là để
phục vụ quyền lợi của giới giáo sĩ.
Tất cả cái trò
hề đó đã được Linh mục Peyramale ở Lourdes (Lộ
đức) dàn dựng và sau đó được giám mục Laurence ở Tarbes khuyến khích và ủng hộ.
Bernadette đã
được hai linh mục khác, LM Ader và LM Ponian chuẩn bị tư tưởng và mớm lời.
Người ta đã đem
cô gái nhỏ bệnh hoạn tới một làng nhỏ, Bartrès, để săn sóc.
Thật là khá
châm chọc khi ta nhận xét là Bà đồng trinh luôn luôn chọn những tâm hồn mộc mạc
để giao phó riêng những bí mật.
Tại sao Bà đồng
trinh lại chỉ xuất hiện trước em nhỏ bệnh hoạn đó?
Ngoài
Bernadette ra còn có hàng trăm, hàng ngàn người. Bà đồng trinh có thể làm cho
sự thổ lộ của mình có một giá trị nổi bật hơn nếu xuất hiện trước tất cả mọi
người một cách không ai có thể nghi ngờ và để lại một vài văn kiện vô hiệu hóa
mọi sự phản đối? Tại sao chỉ chọn những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần?
Vậy thì, những
ảnh tượng Bernadette nhìn thấy đã được sắp xếp một cách hoàn toàn từ trước bở
Linh mục Ader, vì, ít lâu sau những việc làm vụng về đó (mang Bernadette đi xa
để chuẩn bị; TCN), Bernadette trở lại Lourdes
để phóng mình vào những cơn hoang tưởng cuồng loạn.
Thật ra, ngày
28 tháng 12, 1857 (45 ngày trước lần xuất hiện đầu tiên) bộ Tư Pháp đã biết
trước chuyện gì sẽ xẩy ra. Quan Trưởng Tòa ở Pau, ông Falconnet, đã gửi cho ông
Tòa ở Lourdes
một văn thư báo trước chuyện này.
"Tôi được
biết rằng có những biểu lộ về một nhân vật siêu nhiên và mang tính chất của
phép lạ, đã được sửa soạn để đưa ra vào dịp cuối năm. Tôi yêu cầu ông hãy để ý
canh chừng sự thực về những việc này.""
(
L'Église possède des moyens puissants pour répandre ses récits fantastiques.
C'est par million d'exemplaires qu'elle diffuse des publications remplies de
mensonges flagrants et d'erreurs voulues.
Le
fameux livre d'Henri Lasserre, par exemple, Notre Dame de Lourdes, a été
répandu à un million d'exemplaires...Ce genre de littérature est, en effet,
tout désigné pour des intellects rudimentaires...C'est l'oeuvre d'un partisan
aveugle et fanatique.
Un
Jésuite, le P. Cros, avoue que la "liasse des documents confiés autrefois
à M. Henri Lasserre" était vide. "Rien n'y pouvait servir à une
histoire vérédique des apparitions."
...Lasserre
présente Francois Soubirous (le père de la voyante Bernadette) comme un homme
modèle. Le P. Cros reconnait, au contraire, que c'était un alcoolique, qui
buvait au cabaret l'argent de la famille et qui avait été emprisonné, en Mars
1857 pour vol.
...La
petite Bernadette Soubirous, fille de l'alcoolique précité, s'en va ramasser du
bois mort, avec quelques compagnes.
En
arrivant auprès de la grotte, elle apercoit une belle et souriante dame
"qui ne ressemblait à personne de la terre". Elle tombe à genoux. La
dame fait le signe de la croix...
...Elle
retourne, le dimanche suivant, à la Grotte, avec d'autres enfants. Tous
s'agenouillent et se mettent à prier. Bernadette, au bout d'un moment, se
transfigure. Elle apercoit de nouveau la dame blanche. Ses compagnes ne voient
rien, mais sont émues au spectacle de la petite bergère en extase.
...La
vision de la Grotte dicta aussi à Bernadette trois secrets confidentiels. On ne
les a pas divulgués.
Comment
Bernadette est-elle été capable de s'en souvenir, du reste? (en supposant qu'on
lui eut vraiment dicté quelque chose) La pauvre gosse avait si peu de mémoire
qu'elle ne parvenait même pas à répéter ces deux mots: Immaculée Conception.
...Bernadette
avait apporté à la Vierge, pour qu'elle écrive, un crayon et du papier. Mais la
"dame" se déroba et c'est dommage. Nous aurions possédé là un
document curieux, plus original sans doute que les descriptions de la jeune
paysanne. Mais...Bernadette ne savait pas écrire - et c'est la raison, la seule
raison, qui la contraignait à rapporter son papier vierge (comme la
"dame".)
"Allez
dire aux prêtres qu'il doit se bâtir ici une chapelle et qu'on y doit venir en
procession".
Ces
paroles, attribuées par Bernadette à sa radieuse "apparition", ne
pouvaient déplaire à ces messieurs prêtres, on les concoit. La trame est ici
bien visible.
Lorsqu'on
fait parler Madame la Vierge-Mère, c'est toujours, par une coincidence
inquiétante, pour servir les intérêts du clergé.
...Toute
cette farce a été combinée par l'abbe Peyramale, curé de Lourdes,
encouragé et soutenu ensuite par l'évêque de Tarbes, M. Laurence.
Bernadette
avait été savamment préparée et suggestionnée par deux autres prêtres, l'abbé
Ader et l'abbé Ponian.
On
avait envoyé la gamine, malade, se soigner dans un tout petit village de la
montagne: Bartrès.
...
Il est assez piquant de remarquer que la Vierge choisit toujours des simples
d'esprit pour confidents. Cà aussi, c'est une indication précieuse.
...Pourquoi
la Vierge ne voulait-elle se montrer qu'à cette petite malade?
Aux
côtés de Bernadette il y avait des centaines, puis des milliers de personnes.
La Vierge pouvait donner à sa manifestation une valeur plus éclatante en se
montrant à tout le monde, d'une facon indiscutable - et laisser quelque
document qui aurait réduit à néant toutes les objections. Pourquoi choisir
toujours des petits enfants névropathes?
....Les
visions de Bernadette étaient donc parfaitement combinées à l'avance par l'abbé
Ader, car, peu de temps après qu'il eut tenu ces imprudents propos, l'enfant
rentrait à Lourdes
et se livrait à ses hallucinations hystériques.
En
effet, le 28 Décembre 1857 (45 jours avant la première apparition), la justice
était déjà au courant de ce qui allait se passer. Le Procureur Général de Pau,
M. Falconnet, envoyait ce jour-là une note de service au Procureur de Lourdes,
pour le prévenir.
"Je
suis informé que les manifestations affectant un caractère surnaturel et
prenant un aspect miraculeux, se préparent pour la fin de l'année. Je vous prie
de veiller à ce que ces faits soient exactement surveillés...")
Đó
là đại cương về hiện tượng Lourdes.
Trong cuốn sách của Lorulot có đầy đủ chi tiết về những sự dàn dựng của giới
Linh mục về hiện tượng Lourdes,
dựa theo rất nhiều tài liệu nghiên cứu về hiện tượng này cũng như những tài
liệu của chính quyền địa phương. Nhưng tất cả những sự thực này đều không làm
giáo hội lo ngại vì "giáo hội đã quá thông thạo phương cách bóp nghẹt
những vụ gây tai tiếng" (...sans inconvénient de l'Église: elle est si
experte à étouffer les scandales.)
Một
mặt khác, ở Lourdes,
"người ta" đã khai thác triệt để sự mê tín của quần chúng để thu vào
những nguồn lợi khổng lồ. Giáo hội không làm gì để ngăn cản, trái lại còn
khuyến khích.
Chúng
ta hãy đọc đoạn sau đây của André Lorulot (Ibid., trg. 7):
" Cái xí
nghiệp Lourdes
cung cấp cho giáo hội những nguồn lợi vật chất mà giáo hội dùng trong chính trị
nhơ bẩn và mờ ám.
Cái hang đá (Lourdes) không chỉ mang
những lợi tức đến cho công đoàn. Nó còn là một phương tiện để duy trì và phát
triển sự cuồng tín, gia tăng cường độ ngu xuẩn, đẩy sự tin vào siêu nhiên đến
cực độ.
Chúng ta thấy ở
đó mọi dạng khai thác. Mới đây giáo sư A. Chide chứng tỏ rằng đĩ điếm rất phát
triển ở Lourdes.
Và tôi không nói đến vô số thày dòng tới đây "như là một hỏa tiễn"
với các cô "cháu gái" hay tệ hơn nữa.
Nếu các bạn có
đi tới Lourdes thì hãy cẩn thận và đừng tin ở đám người cuồng tín đó, những
người này thực sự là những con vật hung hăng, đầu óc ngu đần bị thống trị bởi
giáo hội và không đủ khả năng để hiểu một lý lẽ có ý nghĩa.
Chúng ta phải
đi tới Lourdes
- và biết quan sát một cách bình tĩnh với óc phán đoán - mới nhận ra tầm rộng
lớn của căn bệnh tôn giáo."
(L'entreprise
de Lourdes
fournit à l'église d'incalculables resources matérielles, qu'elle emploie à sa
politique malsaine et obscure.
La
Grotte ne fournit pas seulement des revenus à la congrégation. Elle constitue
un moyen excellent d'entretenir et de développer le fanatisme, d'exacerber la
bêtise, de pousser au paroxysme la croyance au surnaturel.
...Toutes
les formes d'exploitation sont du reste représentées. Le professeur A. Chide a
montré naguère que la prostitution était très developpée à Lourdes... Et je ne parle pas des
innombrables curés qui viennent ici "en bombe" avec leur
"nièce" ou pis encore..
...Si
vous allez à Lourdes,
soyez prudent et méfiez-vous de ces fanatiques, véritables bêtes furieuses,
cerveaus inintelligents dominés par l'Église et incapables de comprendre un
raisonnement sensé.
...
Il faut aller à Lourdes
- et savoir observer avec calme et discernement - pour saisir l'étendue du mal
religieux.)
Và
sau đây là một đoạn trong cuốn Cái
nhìn của một linh mục hiện đại về giáo hội lỗi thời của ông ta (A Modern Priest
Looks at his Outdated
Church,trg.31,) tác giả
là Linh Mục James Kavanaugh:
"Tôi đã đi
tới Lourdes ở miền Nam nước Pháp. Tôi đứng trong cái
công trường rộng lớn đằng trước thánh đường và quan sát những tín đồ GiaTô ở
khắp nơi trên thế giới chờ đợi một ân sủng đặc biệt của cái đền thờ thiêng
liêng này. Tôi bị các bà người Ý đầu đội khăn xô đẩy, những người Đông Âu to
tiếng thì thầm những lời cầu nguyện làm cho tôi sao lãng. Tôi thấy những người
bệnh hoạn nằm trên cáng, những nhà kinh doanh Mỹ với những chiếc sơ mi trắng.
Tôi thấy những linh mục trong những bộ áo thầy tu của thế giới, những người Phi
Châu hồ hởi trong các bộ quần áo sặc sỡ. Nhưng phần lớn là tôi thấy những bộ
mặt nhăn nheo, nói lên một cách thành thực sự đau đón của họ. Họ đã tới để xin
một ân huệ, giống như những đám người Hồi Giáo tại nơi hành hương, và để hưởng
một sự tiếp xúc đặc biệt với Thần của họ. Họ uống nước ở đó, nổi tiếng về những
tác dụng lạ lùng. Họ mua nước đựng trong những chai plastic để mang về nhà (và
để biếu. TCN). Họ mua từng rổ tràng hạt và mề đay và nhờ những bàn tay mập mạp
nhễ nhại mồ hôi của các linh mục ban phúc lành cho những thứ này. Họ đông như
châu chấu, cúi xuống ngấu nghiến từng cọng ân sủng đặc biệt. Họ mi-mi chân các
ngôi tượng và rên rỉ trong những đền thờ mốc mếch. Họ thú tội bằng đủ mọi thứ
tiếng và nhai nhóp nhép phó mát của miền núi. Rồi, giống như một đàn cừu vĩ đại
đã no nê hài lòng, họ về nhà đi ngủ. Và tôi cũng về nhà đi ngủ, cũng khó chịu
và rối răm bởi sự mê tín như là tôi đã chứng kiến vào một ngày mùa thu đó khi
đội banh Spartans thắng đội banh Rome.
(Đội banh Rome, theo lời kể của Linh Mục Kavanaugh, trước khi ra quân, quỳ
trước nhà thờ yêu cầu được Linh Mục ban phép lành và cho ăn bánh Thánh, hiệp
thông với Thượng đế để Thượng đế phù hộ cho thắng trận đấu, nhưng rút cuộc bị
thảm bại. TCN). Tôi không những chỉ khó chịu và rối răm mà tôi còn cảm thấy
thật là xấu hổ. Đó là giáo hội của tôi, và họ là những tín đồ mà tôi góp phần
đào tạo, những con số thống kê mà chúng tôi cộng vào khi chúng tôi đếm số người
theo đạo. Đầu óc tôi đầy những tư tưởng làm tôi ngủ không được...Tôi nghĩ đến
những con người GiaTô sợ sệt, lo lắng cầu nguyện trong mọi giáo xứ mà tôi đã
phục vụ. Tôi nghĩ đến con người mà là tín đồ Gia-Tô và một lần nữa tôi lại nghĩ
đến họ."
(I
took a trip to Lourdes in southern France. I stood
in the giant square in front of the Basilica and watched the Catholics of the
world await the special blessing of this sacred shrinẹ I was jostled by the
Italian ladies in their shawls, distracted by Eastern Europeans who whispered
their prayers out loud. I watched the sick on their litters, the American
businessmen in their clean white shirts. I saw priests wrapped in the cassocks
of the world, excited Africans in their multi-colored native garb. But most of
all I saw the wrinkled faces, speaking out the sincerity of their pain. They
had come to ask a favor, like the Moslem hordes at Mecca, and to know a special contact with
their God. They drank the water there, which is noted for its miraculous
effects. They bought the plastic bottles to bring the water homẹ They bought
rosaries and medals by the basketful and had them blessed by the pudgy hands of
sweating priests. They covered the grounds like locusts, bent on devouring each
shred of special grace. They kissed the feet of statues and groaned in mildewed
shrines. They confessed in every language and munched their mountain cheese.
Then, like a giant, content herd, they went home to bed. And so did I, as sick
as confused by superstition as I had been on that autumn day when the Spartans
conquered Rome.
Not
only was I sick and confused, I was deeply ashamed as well. This was my Church
and there were the Catholic men I had helped to form, the statistics we added
up when we counted the catholicity of our Church. My mind was crowded with
thoughts that refused to let me sleep. I thought of the frightened catholics
who worried and prayed in every parish I had served. I thought of the man who
is a Catholic and I think of him once again....)
Qua
những tài liệu mà tôi trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy rõ thực chất những
"phép lạ" Gia Tô ở Fatima, ở Lourdes
ra sao. Nhưng đối với số tín đồ Gia Tô tin vào những phép lạ của Giáo hội thì
có thể họ sẽ đưa ra câu hỏi: "Phép lạ Fatima?
Phép lạ Lộ Đức? Tại sao không? Đã có nhiều bằng chứng cho thấy có người đi hành
hương các nơi này rồi về khỏi bệnh v...v..."
Y
khoa đã chứng minh rằng, nếu con người tin tưởng mãnh liệt vào bất cứ một cái
gì, có khả năng chữa "bách bệnh tiêu tan, vạn bệnh tiêu trừ", thì có
thể trong vài trường hợp cơ thể con người tiết ra những chất kháng độc và làm
lui hay khỏi một số bệnh, và họ cho đó là những "phép lạ". Trong
những công cuộc nghiên cứu y khoa, người ta đã cho nhiều bệnh nhân uống thuốc
giả (placebo), nghĩa là không phải thuốc thật mà chỉ là bột thường chế tạo
giống viên thuốc, mà một số bệnh nhân cũng khỏi bệnh như thường. Vậy thì tác
dụng của nước ở Lộ Đức nhiều nhất là tương đương với "tàn hương, nước
giải", đôi khi cũng làm cho nhẹ bớt hay khỏi bệnh. Trong Gia Tô Giáo cũng
có chuyện sau đây: "Những mẩu
xương của Thánh Rosalia, được gìn giữ ở Palermo (miền Nam nước Ý;
TCN), đã "chữa khỏi" cho
nhiều người, ngay cả sau khi người ta khám phá ra rằng đó chỉ là xương của một
con dê"
(The bones of St. Rosalia preserved at Palermo "cured" many people
even after they were discovered to be the bones of a goat; Daleiden, Ibid., trg
113). Những sự kiện này chứng tỏ không có phép lạ nào dự phần trong đó.
Nhưng
vấn đề ở đây không phải là phép lạ, vì phép lạ, nếu thực sự là phép lạ, có tính
cách nhỏ giọt này có bao nhiêu giá trị cho nhân loại? Bảo rằng phải có lòng tin
phép lạ mới ứng. Như vậy là cho rằng trong cả triệu người đến Lộ Đức mỗi năm,
lâu lâu mới có một người tin. Vấn đề ở đây là giáo hội đã khai thác lòng mê tín
của quần chúng để kiếm tiền cho những mục đích chính trị nhơ bẩn và tối tăm như
André Lorulot đã viết ở trên.
7.3. Sự Thật Về Ngụy Tích La Vang:
Sau
đây là chuyện Mary hiện ra ở La Vang, Việt Nam, được cho là vào cuối thế kỷ 18,
năm 1798, theo truyền thuyết, nhưng thực ra không ai biết ngày nào, năm nào.
Theo các tín đồ Công Giáo Việt Nam thì La Vang là nơi mà họ cho rằng Mary đã
hiện ra đánh đuổi Phật Thần, chiếm đất giành dân, cướp Chùa để xây nhà thờ [Xin
đọc vài câu thơ trong cuốn Linh Địa La
Vang
của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc mà tôi sẽ trích dẫn trong một đoạn sau]. Nhà thờ
La Vang đã được Vatican nâng lên thành một Vương Cung Thánh Đường Thứ Yếu [hay
ít quan trọng, hay hạng nhỏ] ở La Vang [a minor basilica in La Vang] ngày 22
tháng 4, 1961, trong thời của chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, tuy
Vatican đã biết rõ là Mary không hề hiện ra ở La Vang như trong tờ Tuần-báo “L'Osservatore Romano”, tiếng nói
chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Tòa Thánh Vatican, trong số 32/33, tuần lễ
12-19/8/1998, đã xác định là: “Bất hạnh thay, không có một văn-bản tài-liệu nào
về những lần hiện ra (ở La Vang) này” [Unfortunately, there is no written
documentation of these apparitions [in La vang]].
Với
sự thú nhận của Tòa Thánh như trên, và đối chiếu quá nhiều mâu thuẫn và phi lý
trong những tài liệu về La Vang do các giám mục, linh mục, và giáo dân Công
Giáo Việt Nam viết về La Vang, chúng ta có thể nói ngay rằng, vụ Mary hiện ra ở
La Vang là một ngụy tích bịa đặt của Công Giáo Việt Nam với hai mục đích: phóng
đại và bi thảm hóa cuộc cấm đạo ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, và nuôi dưỡng sự
mê tín, đẩy mạnh lòng sùng tín Mary theo sách lược của Giáo hội. Phần khảo luận
sau đây hi vọng có thể làm sáng tỏ vấn đề.
Điều
đầu tiên chúng ta cần biết về hiện tượng bà Mary hiện ra ở La Vang là sự hiện
thân này rất khác với sự hiện thân của Mary ở các nơi nổi tiếng khác như Fatima
và Lộ-Đức. Ở Fatima và Lộ-Đức, sự hiện thân của Mary đều có nhân chứng, thiệt
hay giả, chúng ta hãy khoan nói, nhưng là có nhân chứng bằng xương bằng thịt, có
tên tuổi hẳn hoi, do giáo hội Công Giáo đưa ra. Ở Fatima, bà Mary hiện ra trước
ba em bé chăn cừu mù chữ lên 10, 9, và 7 tuổi: Lucia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto. Ở
Lộ-Đức, Mary hiện ra trước cô gái bệnh hoạn Bernadette Soubirous 14 tuổi [Có
một chuyện thuộc loại khó hiểu: Nước thánh ở Lộ Đức, được giáo hội tuyên truyền
là có thể chữa lành nhiều bệnh, do đó giáo dân đã đổ xô đến hành hương, biến
miền Lourdes thành một trung tâm buôn bán mang lợi nhuận khổng lồ đến cho giáo
hội. Ngoài ra, giáo dân trên khắp thế giới cũng có thể gửi mua “nước thánh
Lộ-Đức” dưới hình thức “cúng dường” [donations], vì giáo hội không bán, nhưng chính Bernadette Soubirous, người mà bà Mary ưu
ái chọn để hiện ra trước mặt, lại bị lao xương trong nhiều năm và chết khi mới
có 35 tuổi
(Dr. Joe Nickell in Examining Miracle
Claims:
Despite “multitudinous failures” over the intervening years (one such failure
being Bernadette herself, who suffered for many years from tuberculosis of the
bone and died at age thirty-five)]. Ở cả hai nơi, sự hiện ra đều có ghi rõ ngày
tháng hẳn hoi. Còn ở La Vang thì không hề có một nhân chứng nào, tên tuổi ra
sao, làm gì, và hiện ra ngày nào, hiện ra bao nhiêu lần, không ai biết, tất cả
chỉ là nghe đồn, nghe nói lại, theo truyền thuyết v..v.., và chỉ ở trong nội bộ
Công Giáo Việt Nam, và thường là rất mâu thuẫn với nhau và đượm nhiều chất
hoang đường “không thể tin được”. Những chuyện thuộc loại nghe đồn, nghe nói
lại, truyền khẩu, truyền thuyết, thường không chính xác và thường được đặt ra với
một mục đích nào đó. Theo định nghĩa thì truyền thuyết là những chuyện được kể
lại qua nhiều thế hệ nhưng không thể kiểm chứng được (An unverified popular
story handed down from earlier times.) Do đó, đây là những chuyện ai muốn tin
thì tin, không tin thì thôi. Nhưng những chuyện thuộc loại này trong Ki Tô Giáo
thường được đưa ra với một mục đích. Chúng ta sẽ thấy rõ trong phần phân tích
sau đây.
Vì
hiếm có tài liệu ngoại quốc nào về biến cố La Vang đáng tin cậy, vì vài tài
liệu của Vatican là dựa theo tài liệu của Việt Nam và có khi vô lý đến độ ngớ
ngẩn, như sẽ được chứng minh về sau, sau đây là vài tài liệu Việt Nam về sự cố
bà Mary hiện ra ở La Vang:
1.
Báo Hiệp Nhất, cơ quan ngôn luận
chính thức của Công Giáo Việt Nam hải ngoại, số 28, tháng 4, 1995, đăng bài "Tài Liệu về La Vang", trích từ Hiệp Thông
Mục Vụ số 3, Italia, trong đó có vài đoạn như sau:
"1798.-
Truyền khẩu nói rằng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng hiện ra nhiều lần để an ủi các
giáo dân trốn chạy những cuộc bách hại của Triều đình Tây Sơn vào trong rừng
sâu Lá Vàng, thuộc địa hạt Dinh Cát, nay là Quảng Trị...
...1811.-
Sau khi Gia Long thống nhất, người bên Lương cũng nghe biết có Bà Linh Thiêng
hiện ra ở vùng Lá Vàng...
...1823.-
Đầu đời Minh Mạng, 3 làng Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trừ chung nhau làm một cái
miếu trên nền đất cao nơi cây đa chỗ Đức mẹ hiện ra nhưng gặp nhiều dấu lạ
(mộng mị, tượng bi lật đổ) họ đành thôi và truyền tụng nhau rằng "Bà ấy là
Bà bên Lương mà bên Giáo đã giành đi đó". Ngày nay có người cho rằng dân
bên Lương gọi Bà Linh Thiêng đó là Phật Bà Quan Âm cứu đời. Ba làng đồng lòng
nhường đất và chùa lại cho bên công giáo. Cha bổn sở Dinh Cát đồng ý cho người
công giáo biến chùa thành nhà thờ. Đó là nhà thờ đầu tiên tại La Vang.
...1830.-
Một giai thoại kể rằng Đức Mẹ đã mua vải để trang hoàng bàn thờ..."
2.
Sau đây là vài đoạn trong cuốn Rơi Mặt
Nạ,
Văn Sử Địa 1998 của Chu Văn Trình và Ban Tu Thư Tự Lực, trg. 205-112, dưới đề
mục "Chùa Lá Vàng ở Quảng Trị bị
Gia Tô Cướp Đổi Thành Nhà Thờ La Vang":
"La Vang
tên gốc là làng Cổ Vưu có từ thời Nhà Lê, đến thời Gia Long đổi là phường Lá
Vàng nằm phía Tây đồn Dinh Cát, thủ phủ địa đầu của Việt Nam từ năm 1307, khi
Vua Chiêm Thành Chế Mân hiến dâng Nhà Trần hai châu Ô và Lý làm lễ cưới Huyền
Trân Công Chúa. Hiện nay La Vang (Lá Vàng) thuộc xã Hải Phú, quận Mai Lĩnh,
tỉnh Quảng Trị, cách nam Quảng Trị 6 km, cách bắc Phú Xuân (Huế) 58 km.
...Ngày
17-8-1798, vua Cảnh Thịnh ra sắc dụ cấm đạo Gia Tô kể từ Phú Xuân (Huế) đến Bắc
Hà, vì đây chỉ là "đạo dạy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã
hội"
[Tạ Chí Đại Trường: Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, 1991, trg. 309].
...Năm
1823, dưới triều Minh Mạng, Chùa Lá Vàng thờ Phật Bà Quan Âm bị những người Gia
Tô cướp phá và đổi thành nhà thờ La Vang, Phật Bà Quan Âm đổi thành Maria đồng
trinh.
Dữ kiện trên
tương tự hành vi của Caesars nặn ra Tôn Giáo Giả (Religious Costumes) tức Gia
Tô La Mã Giáo hiện nay.
"Chúng
đơn giản gắn tên cho các tượng thần cũ bằng những tên mới...
- Tượng thần
Jupiter trở thành Tông Đồ Peter
- Tượng thần Vệ
Nữ (Venus) trở thành Maria đồng trinh...
[They simply
gave their old Gods and Idols new names... Jupiter became the Apostle Peter and
Venus became the Virgin Mary etc...]
(Chick
Publications: The Big Betrayal, p. 15; Fifty Years in the "Church of
Rome" by Chiniquy, p. 51, Chick Publications; The Godfathers, p. 7, by J.
T. C.., Chick Publication)
...Gần đây có
tác giả Hồng Phúc, một Linh mục Gia Tô Việt Gian cuồng tín, chủ ý lừa dối công
luận, cố tình viết xuyên tạc sự thật lịch sử để chạy tội quá khứ cho cha ông chúng
can tội phá hoại văn hóa bản địa như cuốn "Đức Mẹ La Vang", trg. 35:
"Trong
những năm đầu 1820-1840, các người Phật Giáo và Công Giáo thuộc các làng Ba
Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau xây một ngôi chùa ngay tại nơi Đức mẹ
hiện ra , gọi là Chùa Ba Làng.
Nhưng
sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng thuận rằng Đức Bà hiện ra là "bên
Giáo", nên đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công
giáo và các gia đình Công giáo tu sửa "ngôi chùa thành nhà Chúa"
Nhưng lịch sử
đã chứng minh không bao giờ có chuyện Phật Giáo và Gia Tô chung nhau xây một
ngôi chùa. Lịch sử hình thành Công Giáo La Mã từ thời Jesus đã cho biết:
Công Giáo đi
đến đâu thì ở đó chúng tìm mọi cách đập phá tất cả công trình kiến trúc có
trước để xây trên nền đất cũ nhà thờ Gia Tô của chúng..
...Ngày
4-8-1885, cách mạng Văn Thân nổi giậy thiêu hủy nhà thờ La Vang đòi lại đất cho
Chùa Lá Vàng. Cũng dịp ấy, Cố đạo gián điệp Caspar ở nhà thờ Kim Long (Huế) đã
tiến cử Nguyễn Hữu Độ, Hoàng cao Khải, Phan Đình Bình...lên Thống Tướng thực
dân De Courcy đem quân tàn sát Văn Thân, cướp lại đất Chùa Lá Vàng cho Gia Tô.
Năm 1886, cố
Tây gián điệp Caspar xây lại nhà thờ La Vang lần thứ hai, đến 15 năm sau mới
xong, ngày 8-8-1901, nhà thờ thứ hai có tên là Thánh Đường La Vang.
Năm 1923, cố
Tây thực dân Allys xây lại nhà thờ lần thứ ba bằng gạch, ngói, 5 năm mới xong.
Năm 1959, thời
Gia Tô phản quốc Ngô Đình Diệm ...nhà thờ La Vang được Diệm trùng tu, xây ba
cột trụ xi măng cốt sắt, tới 1961 mới xong.
Năm
1972, nhà thờ La Vang bị bom Mỹ oanh tạc, chỉ còn lại ba cột xi măng.
Các ngày 13-15
tháng 8 -1998, đạo đồ Gia Tô kỷ niệm 200 năm cướp chùa Lá Vàng ngụy tích là hồn
ma Mary hiện hình.
...Với những
nguồn sử liệu kể trên, nhà thờ La Vang chỉ là một chứng tích đại nhục cho dân
tộc Việt Nam, đánh dấu thời kỳ nô lệ - Việt Nam làm nô lệ cho Gia Tô - Thực Dân
Da Trắng. Giáo hội Gia Tô thuộc địa kế thừa hiện nay là Giáo hội Gia Tô Việt
Gian bán nước."
3.
Sau đây là vài đoạn trong cuốn Linh
Địa La Vang
của Linh Mục Xitanilaô Nguyễn văn Ngọc, ấn bản 1978, Hoa Kỳ. Đầu tiên là lời
tuyên ngôn của tác giả: “Là một linh
mục tuyệt đối phục tùng hội thánh [xin hiểu là Vatican], chúng tôi trân trọng tuyên bố không hề bao giờ muốn
đi trước hội thánh, trong khi kể lại những sự tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang
và những sự kiện được gọi là phép lạ.” Tôi xin miễn phê bình về lời tuyên ngôn này.
Nhưng chúng ta cần hiểu là nếu Vatican chưa đi thì các linh mục Công giáo Việt
Nam không dám đi, vì truyền thống tùng phục Vatican là bao giờ cũng phải đi sau
Vatican, và nếu Vatican chưa viết về La Vang thì các linh mục Việt Nam cũng
không dám vượt quyền mà viết về La Vang. Chỉ có điều, Vatican đã khẳng định là
không có một tài liệu nào viết về những lần hiện ra của Mary ở La Vang, nên
linh mục Nguyễn Văn Ngọc có đi trước hay đi sau và viết về La Vang thì cũng vậy
thôi, vì tất cả chẳng qua chỉ là những chuyện “phịa”. Linh mục Ngọc không hiểu
như vậy nên vẫn phải ra tuyên ngôn sợ là mang tội đi trước hội thánh. Thật tội
nghiệp.. Không sợ tội phịa mà chỉ sợ tội đi trước hội thánh. Ở trang 36, tác giả
Nguyễn Văn Ngọc viết:
Một điều đáng
tiếc là không ai biết Đức Mẹ đã hiện ra tại La Vang vào năm nào cho đích xác.
Nhưng theo cổ truyền mà nhận xét thì Đức Mẹ đã hiện ra vào thời kỳ nước nhà
đang quằn quại giữa cảnh: trăm họ lầm than, từ 1765-1802 như đã nói trên...Có
người nói Đức Mẹ đã hiện ra năm 1798, năm Cảnh Thịnh bắt đạo, đó cũng là nói
theo sự phỏng đoán mà thôi.
4.
Charlie Nguyễn, một trí thức Công giáo thuộc một gia đình gốc nhiều đời, đã
tỉnh ngộ, và với lương tâm của người trí thức chân chính Việt Nam, ông ta đã
vạch rõ cho chúng ta thấy những bộ mặt thật của Công Giáo hoàn vũ cũng như Công
giáo Việt Nam trong mấy cuốn sách quý: “Công Giáo: Huyền Thoại Và Tội Ác”,
“Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, “Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo
Chúa “. Đây là những tiếng nói trung thực của một trí thức Công Giáo, một
người biết rõ hơn ai hết về thực chất của Công Giáo.
Trong
cuốn “Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm”, Charlie Nguyễn có viết một chương về
Trách Nhiệm Của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam với lời mở đầu như sau: “Để dẫn chứng về trách nhiệm của Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú ý đến sách "Linh Địa La Vang" của
Linh Mục Xitanio Nguyễn Văn Ngọc, được xuất bản lần đầu tại Việt Nam với sự
chuẩn y của Tổng Đại Diện Tòa Giám Mục Huế ngày 13.4.1970, và được tái bản năm
1978 tại Hoa Kỳ do Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, thuộc Dòng Đồng Công ở Missouri
(P.O. Box 836 – Carthage MO. 64838). Sách LĐLV đã được viết ra một cách rất tự
nhiên, bộc lộ nguyên vẹn tim gan sâu kín của giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam. Cuốn sách
này đã được giới chức có thẩm quyền theo giáo luật cho phép và đã được Dòng
Đồng Công hải ngoại cho tái bản. Ngoài việc sách này cho biết thêm chi tiết về
hội đồng san định các kinh nguyện, nó còn cho chúng ta biết rất nhiều điều đáng
ghi nhận về trách nhiệm của Hội đồng Giám mục Việt Nam.”
Sau
đây là vài đoạn liên hệ đến ngụy tích La Vang mà Charlie Nguyễn đã nêu ra:
Năm 1885, triều
đình Huế thất thủ. Năm 1886, Giám mục Sohier ỷ vào thế lực thực dân Pháp trưng
đất của dân làng Thanh Tấn và Ba Trục thuộc tỉnh Quảng Trị để mở mang linh địa
La Vang (LĐLV trang 48). Tại đây có một ngôi chùa dưới gốc cây đa trong rừng Lá
Vằng đã được dân làng xây dựng từ đầu đời vua Minh Mạng. Dân Công Giáo đến phá
chùa để cướp đất và họ đã làm những bài vè khá dài kể về việc này. Có điều là
họ cho rằng người phá chùa là Đức Mẹ linh thiêng chứ không phải người thường.
Bài vè này đến nay vẫn được giáo dân La Vang truyền tụng,
Ngôi chùa đã
được biến thành nhà thờ Công Giáo từ đó. Đây là thánh đường đầu tiên tại La Vang
nơi chính Đức Mẹ đã hiện ra . [ Người ta phao tin như thế.]
(Tên cũ Lá Vằng
được đổi thành La Vang có lẽ do các giáo sĩ người pháp viết như vậy trong các
văn kiện nói về Lá Vằng – Ghi chú của Charlie Nguyễn). Từ khi ở linh địa La
Vang có nhà thờ đầu tiên thì sự tích Đức Mẹ hiện ra được thông báo đi khắp nơi
bằng giấy mực của giáo quyền và chính quyền thực dân.
Năm 1939, Đức
Khâm Mạng Tòa Thánh Drapier gửi thông báo cho toàn thể Đông Dương chọn ngày 30
tháng 6 Dương lịch là ngày lễ hai thánh Phê-rô và Phao-lô làm lễ cầu an khắp
nơi và sẽ tổ chức một cuộc rước kiệu thật lớn tại đền thờ Đức Mẹ La Vang. Phủ
Toàn Quyền cũng thông sức khắp nơi cho các công nhân (viên chức nhà nước) phải
đi lễ vào ngày nói trên (LĐLV, tr. 81). Mọi cuộc lễ tại La Vang bị tạm ngưng do
Thế chiến 1939-1945. Sau khi Pháp trở lại Việt Nam, ngày 12.9.1946, lễ kính Đức
Mẹ La Vang lại được cử hành. Hôm đó có bà Vĩnh Thụy tức Nam Phương
Hoàng Hậu đi xe hơi từ Huế ra tận La Vang để dự lễ cầu an (LĐLV, tr. 82)
Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam
(HĐGMVN) được chính thức thành lập do Sắc chỉ ngày 24.11.1960 của Giáo Hoàng
Gioan XXII. Ngày 18.12.1960, HĐGMVN tổ chức đại lễ tạ ơn Tòa Thánh tại nhà thờ
lớn Saigon với sự tham dự của toàn bộ các giới chức cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do
Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Chính hôm ấy, HĐGMVN và chính phủ Diệm đã quyết định
việc dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ (mà đại
diện độc quyền chính thức của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ trên trái đất
này là Vatican – chú thích của Charlie Nguyễn) đồng thời khấn hứa sẽ xây dựng
một đền thờ dâng kính Trái Tim Đức Mẹ tại La Vang. Nhà thờ La Vang sẽ được gọi
là "Đền Thờ Toàn Quốc dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và
"Linh Địa" La Vang” sẽ được gọi là "Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc".
Ngày 8.8.1961, HĐGMVN họp tại Đà Lạt đã quyết định như sau:
Bàn thờ chính
tại nhà thờ La vang sẽ được gọi là "Bàn thờ dâng hiến giáo hội và Tổ Quốc
Việt Nam, cho Trái Tim Vô
Nhiễm Đức Mẹ" và 3 bàn thờ phụ để dâng kính Các Thành Tử Đạo của 3 miền
Việt Nam.
Ngày 20.7.1961,
TGM Ngô Đình Thục viết lời phi lộ trên tờ Nguyệt San Đức Mẹ La Vang số 1 nhấn
mạnh: "La Vang là của chung toàn thể quốc dân Việt Nam, cả lương
lẫn giáo". Ngày 1.6.1961, TGM Ngô Đình Thục thay mặt HĐGMVN gửi hiệu triệu
đi toàn quốc như sau: "Ta vui mừng ban phép và dạy tổ chức Đại Hội kính
Đức Mẹ La Vang năm 1961". Nha Chiến Tranh Tâm Lý của chính phủ VNCH được
lệnh quyên tiền của đồng bào từ Nam
chí Bắc không phân biệt lương giáo. Linh Địa La Vang, tr. 103-109).
Hơn một thế kỷ
qua kể từ khi Đức Mẹ "hiện ra" tại La Vang, linh địa La Vang vẫn
khiêm tốn nằm giữa cảnh rừng hoang núi vắng không mấy ai được biết. Trong thời
gian lâu dài trên, đoàn con của Đức Mẹ sống quằn quại giữa những kỳ cấm đạo
liên tiếp và bao biến cố chính trị xáo trộn. Vì thế, các Đức Giám mục Bề trên
của địa phận Huế lúc bấy giờ như Đức Cha Labarlette, Đức Cha Tabert, Đức Cha Á
Thánh Cuénot, Đức Cha Pellerin, Đức Cha Sohier và Đức Cha Ponviane phải im hơi
lặng tiếng đối với Linh Địa La Vang.
Trái lại, trong
thời gian việc đạo được bằng an phồn thịnh từ 1886 đến 1963, La Vang được lớn
hơn, được đẹp hơn và được sùng mộ hơn. Trước tiên là do sự lo lắng của các Đức
Cha Địa phận như Đức Cha Gaspar, Đức Cha Allys, Đức Cha Chobanon, Đức Cha
Lemasle, Đức Cha Urritia và Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục... Các đấng vì lòng
thành kính Đức Mẹ La Vang đã nỗ lực tô điểm La Vang bằng tinh thần và bằng vật
chất để Linh địa La Vang trở thành giáo đô của một dân tộc. Các Đức Giám Mục
gốc Bình Trị Thiên rất sùng kính Đức Mẹ La Vang như Đức Cha Đominico Hồ Ngọc
Cẩn, Đức Cha Phêrô Ngô Đình Thục, Đức Cha Anselmo Lê Hữu Từ, Đức Cha Simon Hòa
Hiền và Đức Cha Phancixô Xavie Nguyễn Văn Thuận... (LĐLV 143-144 – xin lưu ý
danh từ "Giáo Đô" Ch. N.)
Mấy trang sách
nói trên cũng cho chúng ta nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của HĐGMVN
đối với vận mệnh đất nước như thế nào. Vai trò của HĐGM lại càng trở nên quan
yếu hơn nữa trong một quốc gia có chính quyền nằm trong tay người Công Giáo.
Những trang sách này cũng là những bằng cớ lịch sử không thể chối cãi chứng tỏ
HĐGMVN và chế độ Diệm đã có quyết tâm biến Công Giáo thành quốc giáo. Đó là ước
mơ sâu kín và mãnh liệt nhất của hàng giáo phẩm và giáo dân cuồng tín Việt Nam. Ước mơ
thấy được thể hiện thường xuyên trong các lời kinh cầu nguyện. Xin quý độc giả
cứ lật mấy cuốn sách kinh nguyện Công Giáo Việt ngữ ra đọc sẽ thấy nhan nhản
những bằng cớ cụ thể. Trong suốt thời gian Pháp thuộc, các giáo sĩ Tây Phương
vẫn cố gieo vào đầu óc các tu sĩ và giáo dân Việt Nam một "châm ngôn nô
lệ" nổi tiếng: "Nước Pháp là trưởng nữ Hội Thánh và là Mẹ Việt
Nam" (France, fille ainée de l’Eglise, mère du Việt Nam). Nhiều tài liệu
lịch sử đã chứng minh TGM Ngô Đình Thục rất trung thành với thực dân Pháp. Tổng
giám mục Ngô Đình Thục và HĐGMVN đã cố gắng hết sức mình để thực hiện
"châm ngôn nô lệ" nói trên trong suốt thời gian Ngô Đình Diệm làm
tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
5.
Ngoài ra chúng ta còn thấy một bài viết bằng tiếng Anh của Kim-Oanh Nguyen-Lam và một bài của Vatican nhưng nội dung
không có gì mới, phần lớn là dựa theo cuốn Linh Địa La Vang của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc. Nhưng Linh mục Nguyễn Văn
Ngọc cũng chỉ viết theo những lời đồn, nghe nói lại, truyền thuyết, truyền tụng
v..v.. cộng với óc tưởng tượng phong phú của Linh mục với mục đích kết tội Văn
Thân và đề cao đức tin của giáo dân mà thôi, chứ tuyệt đối không có điều gì
đáng tin cậy. Cái nghề của mấy ông linh mục Công Giáo Việt Nam vốn vẫn là
như vậy.
Qua
tài liệu phân tích của Charlie Nguyễn ở trên, chúng ta thấy rõ bản chất của
Công Giáo Việt Nam, một tổ chức
tuyệt đối nô lệ tòa thánh Vatican.
Theo đúng khuôn mẫu của Giáo hội Mẹ khi xưa, bất cứ khi nào mà Công Giáo có cơ
hội lên cầm quyền thì họ sẽ không ngần ngại làm những việc thương luân bại lý
để truyền đạo và cưỡng ép cả dân tộc phải theo Công Giáo. Trong thời dựa thế
thực dân Pháp và dưới thời Ngô Đình Diệm, với 5-7% dân số Việt Nam theo Công
Giáo mà họ đã huênh hoang áp đặt trên đất nước những điều trịch thượng, vô lối,
ngu xuẩn dựa vào cường quyền nhất thời v..v.., khiến tuyệt đại đa số người Việt
khinh ghét như : Linh Địa La Vang là
“giáo đô” của Việt Nam, "La Vang là của chung toàn thể quốc dân Việt Nam,
cả lương lẫn giáo", "La Vang là Bàn thờ dâng hiến giáo hội và Tổ Quốc
Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ", “dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho
Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ, “La Vang là Đền Thờ Toàn Quốc dâng kính
Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và "Linh Địa" La Vang là "Trung
Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc" trong khi thực ra Đức Mẹ của họ chỉ là một
người đàn bà nhà quê Do Thái có một tiểu sử bất minh, sinh ra một đứa con với
một nguồn gốc bất minh như trong chính Tân ước và kết quả nghiên cứu của các
học giả Ki Tô Giáo ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội đã vạch rõ. Chừng nào mà
Vatican và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chưa lên tiếng chính thức vứt bỏ những danh
xưng vô lối, đầy chia rẽ sâu đậm giữa lòng dân tộc trên, thì chừng đó Công Giáo
cũng chỉ là một đứa con hoang của dân tộc với đặc tính “hễ đã phi dân tộc thì
thể nào cũng phản dân tộc.”
Trở
lại vấn đề Mary “hiện ra” ở La Vang. Thật ra thì bà Mary đã hiện ra ở đâu, nếu
thực sự là bà ta đã hiện ra. Đọc thêm vài tài liệu chúng ta thấy Giám mục Hồ
Ngọc Cẩn thì bảo nơi Mary hiện ra là La Vang, vì đêm nào dân vùng đó cũng la
lối om xòm, đánh mõ, đánh thùng để đuổi thú dữ về phá khoai, sắn, lúa của làng
(Linh mục Lê Văn Thành: Đức Mẹ La Vang, 1955, trang 15-16).
Theo Linh mục Nguyễn Văn Ngọc: Linh
Địa La Vang,
trang 33, thì nơi đó gọi là phường Lá Vằng, vì có nhiều cây lá vằng, có hột đen
ăn được và lá cây có thể dùng làm thuốc. Mãi về sau người ta đọc Lá Vằng thành
La Vang và nay trở thành La Vang. Theo Chu Văn trình thì làng Cổ Vưu, đến đời
Gia Long đổi là phường Lá Vàng. Và theo báo Hiệp Nhất thì nơi đó là rừng sâu Lá
Vàng. Còn Kim-Oanh Nguyen-Lam thì giải thích La
Vang là lời kêu cứu của giáo dân khi bị bạo hành (It was also said that its
name came from the Vietnamese meaning of the word "Crying Out" to
denote the cries for help of people being persecuted.). Vậy La Vang là để đuổi
thú dữ (Hồ Ngọc Cẩn) hay là tiếng kêu cứu của giáo dân (Kim-Oanh Nguyen-Lam).
Xin để quý độc giả thích món nào thì xài món đó.
Vậy
thì bà Mary hiện ra ở đâu, nếu có? La Vang, Lá Vằng, hay Lá Vàng? Và tại sao
lại chọn tên La Vang? Dập theo khuôn những nơi nổi tiếng trên thế giới như
Fatima, Lourdes
v..v.. mà bà Mary thường hiện ra, thì rất có thể ở Việt Nam, bà Mary đã hiện ra
ở một nơi rất Lạ Vắng. Đây là một nơi rất Lạ và rất Vắng cho nên không có mấy
người biết và cũng không có mấy người thấy. Tất cả chỉ là truyền khẩu, truyền
tụng nhau, giai thoại, hay nghe biết. Cũng vì vậy mà năm 1998, Vatican đã thú nhận là: “Bất hạnh thay, không có một
văn-bản tài-liệu nào về những lần hiện ra (ở La Vang) này” [Unfortunately,
there is no written documentation of these apparitions [in La vang]].
Đúng
vậy, những chuyện thuộc loại truyền khẩu, nghe biết, truyền tụng nhau, hay giai
thoại thì không thể gọi là “tài liệu”. Nếu không phải là những tài liệu thành
văn đã được kiểm chứng là xác thực, thì chuyện bà Mary hiện ra ở La Vang không
phải là một sự kiện lịch sử và không có lý do gì để cho chúng ta tin đó là sự
thực. Nói khác đi, chuyện bà Mary hiện ra ở La vang chỉ là một chuyện bịa đặt.
Ai bịa đặt. Câu trả lời nằm trong câu hỏi.
Đọc
vài tài liệu trên về biến cố La Vang chúng ta có thể tóm tắt sự việc trong hai
điều mà người Công Giáo đề ra. Thứ nhất, Công Giáo bị đối xử khắc nghiệt và bị
bạo hành, truy sát ở Việt Nam cho nên nhiều lần giáo dân phải trốn chạy, và một
số giáo dân đã chạy đến vùng La Vang ẩn náu. Thứ nhì, Bà Mary đã hiện ra trước
số giáo dân ở La Vang đó để an ủi họ và đến năm 1830, theo giai thoại, còn nói
tiếng Việt đi mua vải để trang hoàng bàn thờ của chính bà [tuy bà chưa hề học
cua VSL (Vietnamese as a Second Language) nào. TCN].
Bây
giờ chúng ta hãy đi vào phần bình luận và phân tích. Trước hết, theo truyền
thống văn hóa Việt Nam thì
Việt Nam
rất khoan nhượng với Công Giáo như lịch sử đã chứng minh. Truyền thống văn hóa
tôn giáo của của Việt Nam
có tính chiết trung, có nghĩa là không đặc biệt theo một tôn giáo duy nhất nào,
mà là phối hợp những cái hay trong mỗi tôn giáo để áp dụng vào bản thân. Tư
tưởng về một tôn giáo duy nhất, độc quyền, rất xa lạ với Việt Nam. Do đó Việt
Nam
chưa bao giờ cấm đạo vì lý do tôn giáo. Trong thời đại Lý, Trần, Phật Giáo cực
thịnh: “Thiên hạ Lý Trần bán vi tăng”, từ Vua tới Quan đều theo Phật Giáo, nhưng
triều đình đã mở khóa thi Tam Giáo và quảng bá tư tưởng Tam Giáo Đồng Nguyên.
Cho nên, việc cấm đạo hay bách hại giáo dân dưới thời Tây Sơn, hay đúng hơn,
dưới thời Vua Cảnh Thịnh, thực ra không có gì là quá khắc nghiệt và là chuyện
không dính dáng gì tới đạo mà là liên hệ đến vấn đề chính trị và quyền lực như
ta thấy trong các tài liệu sau đây:
Theo
Linh mục Nguyễn Văn Ngọc thì, Ibid., trang 36:
“Nhưng theo sử
liệu, đối với giáo dân Thiên-Trị-Bình, vua Cảnh Thịnh và các quan Tây Sơn chỉ
bắt bớ khuấy nhiễu họ trong một thời gian ngắn, vào những tháng cuối năm 1798,
vì năm đó không có chiến tranh...”
Theo
Đỗ Quang Hưng trong cuốn Một Số Vấn Đề
Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam, trg. 43, thì:
"Lúc đầu
nhà Tây Sơn không ngăn cản truyền đạo. Nhưng rồi khi bắt được thư của Nguyễn
Ánh nói rõ có Giám mục Bá Đa Lộc bên cạnh nên đã ra lệnh cấm. Thư nói rõ gửi
cho thày Dương (chỉ giáo sĩ Pháp) ở Phú Xuân, thư cũng nói khả năng dùng lực
lượng Thiên Chúa Giáo làm nội ứng cho Nguyễn Ánh."
Linh
Mục Trần Tam Tĩnh cũng viết trong cuốn Thập
Giá và Lưỡi Gươm,
trang 31:
"Sự
bách hại, vốn chưa hề dứt từ 30 năm qua, đã tái phát dữ dội hơn vào năm 1798.
Thực ra, đây chẳng phải chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua
Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đã có lần chận bắt được một bức thư Nguyễn Ánh gửi cho
Giám mục Laberlette, xin đức cha tổ chức một đạo quân gồm người tín đồ Ki Tô
giáo tại chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp chỉ huy đánh từ ngoài
vào."
Qua
vài tài liệu trên, chúng ta thấy rằng, việc "cấm đạo" hay "bách
hại giáo dân" trong thời Tây Sơn không phải là vì lý do tôn giáo, mà vì
giáo dân đã làm nội ứng cho Nguyễn Ánh và cho những tên lính đánh thuê Pháp do
Giám mục Bá Đa Lộc cầm đầu. Chúng ta cũng biết rằng Giám mục Laberlette có mặt
thường xuyên ở vùng Bình-Trị-Thiên trong 50 năm, từ 1773 đến 1823, (Nguyễn Văn
Ngọc, Ibid., tr.37) và đặc biệt là ông ta không hề gửi về Vatican một tài liệu
nào về vụ La Vang, một biến cố rất quan trọng cho đức tin Công Giáo mà ông ta,
cũng như mọi giám mục linh mục ở hải ngoại, phải có bổn phận báo cáo thường
xuyên về tình hình giáo dân trong địa phận của mình. Thật vậy, Linh mục Nguyễn
Văn Ngọc viết trong cuốn Linh Địa La Vang trang 33:
“Trong
bản phúc trình lên Thánh Bộ Truyền Giáo đề ngày 17-2-1791, Cha Lôsensô Long
(lân), Linh mục quản xứ Tiên-khởi Dinh Cát (vùng La Vang. TCN) đã ghi như sau:
“...Ngày 08-1-1791 trong cuộc viếng thăm các họ đạo vùng Dinh Cát, tôi đã tới
thăm họ Cổ Vưu. Số giáo dân ở đây gồm có 120 người. Phần đông giáo hữu họ này
đi làm rú, không có mấy người ở nhà...”
Chỉ
một cuộc viếng thăm một họ đạo mà Linh mục cũng phải phúc trình về Vatican,
huống chi là một biến cố tối quan trọng cho đức tin của giáo dân là vụ bà Mary
hiện ra ở La Vang. Vậy tại sao, giám mục Labarlette lại không hề có một phúc
trình nào về vụ này? Đơn giản là chẳng làm gì có chuyện bà Mary hiện ra ở La
Vang, vì nếu có, Giám mục Labarlette không thể không biết, và không thể không
phúc trình về Tòa Thánh. Vậy chúng ta có thể kết luận là: Ngụy tích La Vang đã
được đặt ra sau năm 1823, nghĩa là sau năm đó Giám mục Labarlette không còn ở
trong vùng Bình-Trị-Thiên nữa.
Nói
tóm lại, ngụy tích Đức Mẹ hiện lên ở La Vang để an ủi những kẻ theo Tây phản
bội quốc gia này là chuyện lẩm cẩm, vô lý, chứng tỏ rằng Mẹ chẳng biết gì về
thực chất việc cấm đạo cả, một hành động có thể nói là đồng lõa với những tội
đồ của Việt Nam. Hơn nữa lệnh cấm đạo không chỉ thu hẹp ở vùng La Vang, tại sao
Bà Mary lại chọn La Vang làm nơi hiện thân? Còn nữa, Mẹ Thiên Chúa quyền phép
vô biên mà chỉ có thể hiện lên an ủi suông mà không thể làm gì khác cho giáo
dân hay sao, ngoài việc đích thân đi mua vải để trang hoàng bàn thờ của chính
mình? Còn nữa, đây là một sự kiện không ai có thể phủ nhận: Năm 1972, nhà thờ
La Vang bị bom Mỹ oanh tạc, chỉ còn lại ba cột xi măng. Phép lạ của bà Mary đâu,
sao không mang ra thi thố, mà lại để cho nơi mình hiện ra, có nhà thờ thờ phụng
mình bị phá hủy như vậy? Đây chỉ là vài nghi vấn trí thức có pha đôi chút khôi
hài để cho các tín đồ Công Giáo suy nghĩ, nhưng không phải chỉ có vậy.
Chúng
ta đã biết, ở bên Nhật, chính sách cấm đạo và bách hại giáo dân quyết liệt và
tàn nhẫn hơn ở Việt Nam rất nhiều, với biện pháp đóng đinh ngược đầu xuống đất
các thừa sai và giáo dân trên cây thập giá, đến nỗi không còn một mống thừa sai
hay giáo dân nào, mọi nhà thờ Ki Tô giáo đều bị phá hủy, trong suốt thời gian
200 năm, sao không thấy Mẹ tới đó mà an ủi, mà lại hiện thân ra an ủi vài giáo
dân chạy trốn tới vùng Lá Vàng?
Còn
nữa, chỉ mới có vài năm trước năm 1798 mà người ta cho là bà Mary đã hiện ra ở
La Vang, Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Công Giáo La Mã, trong cuộc cách mạng
1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, tàn sát 47 Giám Mục, trên
17000 Linh Mục (Cha cũng như Chúa, Con cưng của Mary), và 30000 Nữ Tu, dẹp mọi
Trường Dòng, Trường Học Công Giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của
Giáo hội Công Giáo Pháp v..v.. [Xin đọc The
Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo
sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican
dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the
Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000
priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries,
Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”], sao
không thấy Mẹ hiện ra mà an ủi?
Năm
1954, 72% số Giám mục, linh mục ngoài Bắc chạy vào Nam với hơn 700 ngàn con
chiên theo sau, sao không thấy Mẹ hiện ra an ủi mà Mẹ lại cùng Chúa phải chạy
vào Nam trước theo lệnh của Lansdale để cho các con chiên phải chạy theo?
Chừng
đó cũng đủ để thấy chuyện hiện ra của Mary ở La Vang hoàn toàn không có căn bản
thuyết phục, vì sự bách hại một số giáo dân ở Việt Nam vào năm 1798 không có gì đáng
kể và không phải vì lý do cấm đạo.
Còn
chuyện dân ba làng ở Dinh Cát không lập được miếu vì Đức Mẹ đã giành miếng đất
đó của bên Lương và phá không cho làm miếu (mộng mị, tượng bị lật đổ), do đó
dân ba làng phải "đồng lòng nhường đất và chùa" cho bên công giáo làm
nhà thờ.. là một chuyện lố bịch chưa từng thấy, không những mạ lỵ Đức Mẹ mà lại
còn vô lý về phương diện lịch sử. Nếu thật như vậy thì Đức Mẹ quá hẹp hòi vì
chơi cái trò giành dân chiếm đất của thực dân và tay sai. Người Công Giáo, mỗi
khi cắm được cây thánh giá lên đất của tôn giáo khác, bất kể bằng thủ đoạn nào,
thì rất lấy làm hồ hởi, hãnh diện, cho rằng đã làm "vinh danh Thiên Chúa
trên trời". Họ không biết rằng như vậy là làm nhục Chúa, hạ thấp Chúa
xuống hàng cướp cạn. Chúa dạy đi truyền bá "tin mừng" chứ đâu có dạy
đi cướp đất chiếm dân? và nay, ở La Vang, họ cũng hạ Đức Mẹ của họ xuống hàng
cướp cạn, cũng như họ đã từng làm với Chúa của họ. Chứng minh?
Đúng
như Chu Văn Trình đã viết ở trên: Chùa
Lá Vàng thờ Phật Bà Quan Âm bị những người Gia Tô cướp phá và đổi thành nhà thờ
La Vang,
và như Charlie Nguyễn viết trong sách Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm: “Năm 1885, triều đình Huế thất thủ. Năm 1886, Giám mục
Sohier ỷ vào thế lực thực dân Pháp trưng đất của dân làng Thanh Tấn và Ba Trục
thuộc tỉnh Quảng Trị để mở mang linh địa La Vang (LĐLV trang 48). Tại đây có
một ngôi chùa dưới gốc cây đa trong rừng Lá Vằng đã được dân làng xây dựng từ
đầu đời vua Minh Mạng. Dân Công Giáo đến phá chùa để cướp đất và họ đã làm
những bài vè khá dài kể về việc này”, chúng ta hãy đọc vài câu thơ có tính cách thú
nhận của Linh mục Nguyễn Văn Ngọc hãnh diện viết lại trong cuốn Linh Địa La Vang, trang 41:
Rằng
Phật rằng Thần lao đao
Có
bà bên đạo (chích. TCN) phép cao lạ lùng
Bà
vào bà đánh tứ tung
Bao
nhiêu Thần Phật đều tung ra ngoài
Tiếng
bà thật đã linh oai
Lư
hương bát nước đền đài đều hư...
Thật
là đẹp mặt bà Mary. Thật là đẹp mặt Công Giáo Việt Nam. Chỉ bằng vào mấy câu thơ này
chúng ta cũng có thể quyết đoán là chính giáo dân Công Giáo đã đánh phá Chùa ở
La Vang, phá hủy các bàn thờ, tượng thờ trong Chùa, theo đúng lời dạy của Chúa
Jehovah trong Cựu Ước, nghĩa là cướp Chùa để xây nhà thờ La Vang trên đó, tương
tự như đã cướp Chùa Báo Thiên ở Hà Nội để xây lên Nhà Thờ Lớn, hoặc đất Chùa ở
Saigon để xây lên nhà thờ Đức Bà trước Ty Bưu Điện v..v.. Đất ăn cướp của Chùa
đã trở thành Linh Địa của Công Giáo, giống như tiền nhơ bóc lột được của người
Do Thái và Chính Thống đã được Vatican rửa thành tiền sạch để trong ngân hàng.
Mặt
khác, lịch sử thế giới từ xưa tới nay chưa có trường hợp nào mà nhà Chùa
"nhường" Chùa cho bên "Giáo" làm nhà thờ. Đây rõ ràng là
một chuyện phi lý, được bày đặt ra để che dấu tội cướp cạn. Nhưng trường hợp
bên Giáo, tuân theo những lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, đi phá Chùa, cướp Chùa
hay những nơi thờ tự của tôn giáo khác rồi cắm cây Thập Ác lên đó thì nhiều vô
kể. Ở Việt Nam
không thiếu những trường hợp này.
Trước
những nguồn thông tin kể trên, chúng ta biết tin nguồn nào? Báo Hiệp Nhất, cơ quan ngôn luận chính thức của Công Giáo
Việt Nam hải ngoại, và sách của Linh mục Hồng Phúc chứa những thông tin mâu
thuẫn nhau, phi lý, không hợp với giáo điều của Công Giáo, và không phù hợp với
những sự kiện lịch sử trong xã hội Việt Nam. Hiệp Nhất thì nói rằng: vì Đức Mẹ
phá, không cho dân địa phương lập miếu thờ Phật Bà Quan Âm nên dân ba làng đã "đồng lòng nhường đất và chùa lại cho bên Công
Giáo."
Linh mục Hồng Phúc thì bảo: hai bên Lương Giáo chung nhau xây một ngôi Chùa,
nơi Đức Mẹ hiện ra, nhưng rồi bên "Lương" đã nhường ngôi Chùa lại cho
bên "Giáo" tu sửa chùa thành nhà thờ. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc thì
cho rằng “Bà vào bà đánh tứ tung” để cướp Chùa. Vậy
thì ai đúng, ai sai? Nếu chúng ta không có căn bản nào để quyết định ai dúng,
ai sai thì chúng ta phải đi đến kết luận là loại bỏ tất cả, vì chuyện Đức Mẹ
giành dân chiếm đất là chuyện hoang đường cũng như chuyện Đức Mẹ đã di cư vào
Nam, và chuyện tín đồ hai bên Lương, Giáo chung nhau xây chùa vào đầu thế kỷ 19
cũng là chuyện hoang đường, khó tin, vì nếu sự thực là như vậy thì số tín đồ
Công Giáo này đã bị Chúa Cha của họ vật chết tươi ngay, nếu chúng ta tin vào
những lời mặc khải không thể sai lầm trong Cựu Ước. Thông tin trong Văn Sử Địa,
tuy văn phong có vẻ hơi mạnh vì đi thẳng vào trọng điểm (to the point), nhưng
có vẻ hợp lý hơn, nếu chúng ta xét đến sách lược truyền bá đạo Công Giáo trên
thế giới. Chúng ta cũng nên biết rằng, hiện tượng Đức Mẹ hiện ra đã càng ngày
càng bị lạm phát trên khắp thế giới, lý do đơn giản là Công Giáo đang suy thoái
trên khắp thế giới nên phải cho Đức Mẹ hiện ra để vớt vát phần nào đức tin
trong đám giáo dân.. Theo truyền thống của Giáo hội mẹ, giáo hội con muốn bắt
bà Mary hiện ra ở đâu thì bà ấy phải hiện ra ở đó. Chúng ta còn nhớ, năm 1975,
một Linh mục Việt Nam cũng cho bà Mary hiện ra ở Bình Lợi, nhưng không ăn
khách, nên sự vụ bị xẹp như quả bóng xì hơi.
Về
sự hiện ra của bà Mary ở La Vang, có lẽ bài biên khảo “Sự Thật Về Đức Mẹ La Vang” của Đức Cố Lê là đầy
đủ và chi tiết nhất. Chúng ta có thể đọc toàn bài này trên Internet. Tuy nhiên,
có một tài liệu mà tác giả lấy từ tờ L’osservatore
Romano,
trong đó có một chi tiết rất khôi hài, chứng tỏ Vatican cũng mù mờ, chỉ dựa
trên những tài liệu, báo cáo láo của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Đoạn của tác
giả Đức Cố Lê nguyên văn như sau:
Báo
“L'Osservatore Romano”, cơ-quan truyền-thông chính-thức của Tòa Thánh Vatican ở
La Mã, số ra ngày 12/19-8-98, có đăng bài “Ky-Tô-Hữu Việt-Nam Sùng Kính Đức-Mẹ
La-Vang: Sự-Tích Đức-Mẹ Hiện Đến Với Giáo-Dân Trong Rừng La-Vang Ở Việt-Nam”,
trong đó có đoạn:
“Vào cuối
thế-kỷ 18, lãnh-thổ Việt Nam bị chia thành 2 vương-quốc: Đàng Ngoài thuộc quyền
chúa Trịnh đóng đô ở Hà Nội; và Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn đóng đô ở
Huế. Các chúa trong Nam muốn đánh ra Bắc nên nhờ người Pháp giúp đỡ. Nhưng có
một nhóm trí-thức, gọi là Văn Thân, chống lại sự can-thiệp của người Pháp và đã
thành-công trong việc giúp vua Quang Trung lên ngôi. Ông này chiếm được miền
Bắc, nhưng từ-trần sớm, để lại ngai vàng cho con là vua Cảnh-Thịnh, tuổi mới
lên mười...”
Cái
chuyện khôi hài và mù mờ của Vatican ở đây là viết về Văn Thân trong thời đại
của Vua Quang Trung và giúp Vua Quang Trung lên ngôi. Đây là “giết sử” chứ
không phải là “viết sử”. Bởi vì 82 năm sau khi Vua Quang Trung băng hà (1792)
thì dưới triều Vua Tự Đức mới có phong trào Văn Thân (1874) đưa ra khẩu hiện
“Bình Tây, Sát Tả”. Thời Vua Quang Trung đã làm gì có Tây mà Bình Tây? Mới chỉ
có tên Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), việc đạo không lo, đi lo việc
tuyển mộ lính đánh thuê (mercinaries) để giúp Nguyễn Ánh. Một sự kiện lịch sử
rõ ràng như vậy mà các “cha cũng như Chúa’ ở Vatican còn viết sai bét sai be
như vậy, huống chi là những chuyện hoang đường như bà Mary hiện ra ở nơi Lạ
Vắng, không ai biết, không ai thấy. Thật ra thì chuyện Vatican phịa sử Việt Nam
cũng đâu lấy gì làm lạ vì, thiên tài quân sự Nguyễn Trường Tộ cũng được Thần
Khí Đức Ki Tô mạc khải (theo LM Thiện Cẩm) để phịa sử Việt Nam giống như
Vatican vậy thôi. Nguyễn Trường Tộ viết trong những bài “Điều Trần” Hòa Từ (1861) và Thiên Hạ Đại Thế Luận (1863) là “...Nếu quân Pháp cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường
tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương...thì thủy
binh của ta sẽ trở thành vô dụng.” trong khi hịch Cần Vương chống Pháp của Tôn
Thất Thuyết được phát ra hơn 20 năm sau khi Nguyễn trường Tộ viết điều trần,
vào năm 1885.
Chúng
ta biết rằng, cái gọi là “Linh địa La Vang” chỉ khởi sắc từ năm 1955 khi ông
Công Giáo Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống ở miền Nam và có người anh là Tổng
Giám Mục Ngô Đình Thục. Tôi còn nhớ, năm 1955 tôi đang phục vụ tại Trung Đoàn
1, đóng tại Quảng Trị. Năm đó các quân nhân công chức hầu như đều bị bắt buộc
phải tham gia cuộc lễ ở La Vang. Quân đội được huy động để cung cấp mọi phương
tiện cho cuộc lễ này. Tôi là sĩ quan cấp nhỏ nên không tham dự cuộc lễ ở La
Vang cũng chẳng có ai để ý. Nhưng những sĩ quan từ cấp tá trở lên ở hậu phương
mà không tham dự thì cũng hơi phiền với Cần Lao Công Giáo. Đức Cố Lê dưa ra
nhận xét:
“Sau khi ông
Ngô Đình Diệm chấp chính (1955-1963), chính quyền họ Ngô nói chung và giáo hội
Công Giáo Việt Nam nói riêng đã nhắm ít nhất là hai chủ đích: giúp cho tổng
giám mục Ngô Đình Thục (anh của ông Diệm) được phong hồng y bằng cách gia tăng
tín đồ; và phát triển tầm quan trọng của La Vang, vì một cảnh trí Đức Mẹ hiện
ra chắc hẳn sẽ làm cho quốc gia sở tại nổi
tiếng khắp thế giới và lôi cuốn đông đảo tín hữu cũng như du khách từ xa đến
hành hương.”
Nhận
xét trên rất đúng, nhưng thiên bất dung gian, cả hai chủ đích trên đều không
thực hiện được, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phải chịu một kết cục bi thảm, và
người dân Việt Nam đã biết rõ bản chất của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng như
ngày nay, càng ngày càng biết đến bộ mặt thật của Công Giáo. Trong thời đại
ngày nay, Công Giáo không còn quyền lực để mà ngăn chặn hay bịt đi những thông
tin chính xác về Công Giáo, về mặt đạo cũng như mặt đời. Và chúng ta phải hi
vọng rằng, sau cùng thì Sự Mê Tín Cuối
Cùng
(dịch theo tên cuốn The Final
Superstition
của học giả Công Giáo Joseph L. Daleiden) cũng không thể còn chỗ đứng trong sự
tiến bộ trí thức của nhân loại.
Qua
lô-gíc và sự phân tích và bình luận trí thức những tài liệu về sự hiện ra của
bà Mary ở La Vang, chúng ta có thể kết luận là, và đây cũng là kết luận của Đức
Cố Lê: Xin thưa: Thật ra không hề có việc Đức Mẹ (của Công Giáo) hiện ra tại La
Vang. La Vang chỉ là một ngụy tích như hàng trăm
các ngụy tích khác do các Giáo hội Công Giáo trên thế giới dựng ra chứ không
phải là những sự kiện lịch sử, nhất là La Vang, vì tất cả về La Vang chỉ là
nghe nói, truyền khẩu, nghe biết, truyền tụng nhau, hay giai thoại. Tuy
nhiên tôi không phản đối bất cứ ai vẫn tiếp tục tin và cho rằng bà Mary thực sự
đã hiện ra ở La Vang, vì như trên tôi đã viết: Cái mà con người chọn để mà tin, hay đã được cấy vào
đầu từ nhỏ để mà tin, thì không cần thiết phải dựa trên những bằng chứng lịch
sử, bằng chứng khoa học. Không có một công thức nào, một lý luận trí thức nào,
hay một bằng chứng khoa học nào có thể mang ra để xác định hay thử nghiệm một
đức tin..
Chúng
ta cũng nên biết rằng, hiện tượng Đức Mẹ hiện ra đã bị lạm phát, trên dưới 250
vụ trên khắp thế giới, nhưng Tòa Thánh chỉ "chấp thuận" có 6 vụ mà
thôi, đặc biệt là không có vụ nào ở cái xứ Mỹ văn minh tiến bộ nhất này được
chấp thuận.
Cho tới ngày nay, phần lớn tín đồ Gia Tô vẫn
được dạy rằng các tôn giáo khác đều sai lầm và thuộc loại mê tín dị đoan. Luận
điệu thời Trung Cổ này cũng được các chức sắc Gia Tô địa phương với đầu óc của
những con cừu ngoan ngoãn, hoặc những con vẹt, phụ họa. Gia Tô Giáo thường cho
rằng Phật Giáo, một tôn giáo mà điều căn bản Đức Phật dạy là không được tin vào
bất cứ điều gì, dù điều đó do chính Đức Phật nói, hay từ một Thánh Thư, từ một
vị Thầy nổi tiếng, từ những truyền thống lâu đời, nếu chưa chứng nghiệm vào
chính bản thân điều đó thực sự thánh thiện, giúp ích cho mình, cho người
v..v..(Kinh Kalama), là mê tín và thờ hình tượng. Các học giả nghiên cứu tôn
giáo đã kết luận rằng Gia Tô La Mã Giáo mới chính là một tôn giáo mê tín và thờ
hình tượng nhất thế gian. Họ thờ hình tượng Giê-su và Maria khắp nơi và họ có
thể tin vào những điều vô lý, phản khoa học v..v.. mà không một người ngoại đạo
nào có thể tin được: tin vào một vị Thần toàn năng sáng tạo ra muôn loài trong
khi không có bất cứ một bằng chứng nào chứng minh sự hiện hữu của vị Thần đó;
tin vào một người chết sống lại sau ba ngày và bay cả hồn lẫn xác lên trời sau
40 ngày (Giê-su), trái với tất cả những định luật khoa học và thiên nhiên; tin
vào một người đàn bà Do Thái đã s_inh nhiều con mà vẫn còn đồng trinh; tin ở
Đức Mẹ hiện ra ở nhiều nơi, nói đủ thứ tiếng để chống Cộng v...v... Vậy mà Giáo
hội vẫn dạy con chiên đấy không phải là mê tín dị đoan, mà chỉ là "thiên
khải", và con chiên rất lấy làm hãnh diện được làm tín đồ của một tôn giáo
tự nhận là "văn minh, tiến bộ" nhất.
CHƯƠNG VIII
XUNG QUANH VẤN ĐỀ
THIÊN CHÚA GIÁO VÀO VIỆT NAM
Qua
7 chương trên, chúng ta đã thấy rõ bản chất thực sự của Gia Tô La Mã Giáo.
Chúng ta đã biết sách lược truyền giáo dùng "cường quyền, bạo lực thắng
công lý" của tôn giáo này trên hoàn cầu; chúng ta cũng đã biết tư cách,
đạo đức, và thái độ của những giáo sĩ thừa sai đối với các dân tộc kém mở mang
về văn minh vật chất; và thực chất những tín đồ tân tòng trong các quốc gia
này. Do đó, chẳng cần phải nghiên cứu sâu xa gì, chúng ta cũng có thể đoán được
bản sắc xâm nhập của Gia Tô La Mã Giáo vào Việt Nam
ra sao, và tôn giáo này đã mang lại những gì cho dân tộc Việt Nam. Tôi không
nghĩ rằng Việt Nam
là một ngoại lệ. Và như vậy, chúng ta có thể thấy tất cả những sắc thái nhơ
nhớp, tàn bạo kể trên khi Gia Tô La Mã Giáo xâm nhập vào Việt Nam, cũng như
chúng ta đã thấy những sắc thái này ở mọi nơi khác trên thế giới.
Trong
cuốn Việt Nam Giáo Sử, Linh mục Phan Phát
Huồn viết:
"Giáo hội
(Gia Tô La Mã ở) Việt Nam
cũng như bất cứ giáo hội (Gia Tô La Mã địa phương) nào, là một giáo hội xây đắp
bằng xương máu. Xương máu ấy là lý do của sự sống dồi dào mãnh liệt của giáo
hội.."
Linh
mục Phan Phát Huồn có ý nói là giáo hội Gia Tô La Mã tại Việt Nam được xây
đắp bằng xương máu của những tín đồ sẵn sàng "tử vì đạo". Nhưng lịch
sử đã chứng minh rằng, những tín đồ này không phải là "tử vì đạo" mà
bị tàn sát vì phạm tội chống lại nền văn hóa dân tộc, không tôn trọng luật pháp
quốc gia, nổi loạn, làm tay sai cho giặc ngoại xâm, phản bội quê hương
v...v.... Vậy nếu họ không phải là "tử vì đạo" thì xương máu nào đã
xây đắp thành giáo hội? Qua những tài liệu về lịch sử Gia Tô La Mã Giáo toàn
cầu, câu viết trên của Linh Mục Huồn có thể đúng nhưng theo một nghĩa khác, nếu
chúng ta hiểu rằng xương máu trên là xương máu của những người ngoại đạo, của
những người "dị giáo", những người không có cùng tín ngưỡng với Gia
Tô La Mã giáo, những người bỏ mình trong những cuộc Thánh Chiến, trong các Tòa
Hình Án xử Dị Giáo, trong những cuộc chiến tranh xâm lược của Thực Dân v...v...
mà vai trò chủ chốt của Gia Tô La Mã giáo trong đó đã là những sự kiện lịch sử.
Riêng
ở Việt Nam, chúng ta có thể nói rằng giáo hội Gia Tô tại Việt Nam đã được xây
đắp bằng xương máu của những người Việt Nam yêu nước, những người không chịu từ
bỏ truyền thống luân lý, đạo đức gia đình và dân tộc của mình, do đó đã phải hi
sinh để bảo vệ, gìn giữ những truyền thống cao đẹp của đất nước, trước cuộc xâm
lược song hành của thực dân và Gia Tô giáo, và trước chính sách kỳ thị tôn giáo
tàn bạo của Ngô Đình Diệm và tay sai trong 9 năm trời cai trị ở miền Nam, riêng
trong thời gian này số người ngoại đạo bị giết hại lên tới trên 300000 người.
Đúng vậy, những núi xương, sông máu của những người ngoại đạo vô tội chết dưới
cây "thập giá và lưỡi gươm" đã xây đắp đời sống dồi dào của các giáo
hội Gia Tô, và người Gia Tô không có cách nào có thể cất bỏ được những đống
xương máu đó trên bờ vai lương tâm của họ, dù Giáo hoàng John Paul II đã dạy
con chiên của ông phải ăn năn thống hối về những tội ác Gia Tô La Mã Giáo đã
mang đến cho nhân loại, và đã chính thức xưng thú 7 núi tội lỗi của giáo hội
Gia-tô toàn cầu đối với nhân loại..
Đây
phải chăng là những lời lộng ngôn của tác giả? Những bằng chứng trong các
chương trên và phần khảo luận sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ những lời phê
phán trên hoàn toàn dựa vào tài liệu lịch sử chứ không phải là tác giả đã đặt
điều một cách vô căn cứ, vô trách nhiệm.
Có
lẽ luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về "Giáo
Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914” của Cao Huy Thuần ở
Đại Học Paris là nguồn tài liệu phong phú và chính xác nhất về mối liên hệ giữa
Gia Tô La Mã Giáo và chủ nghĩa thực dân, cùng thực chất vai trò của các giáo sĩ
thừa sai Gia Tô cùng con chiên bản địa trong cuộc xâm chiếm Việt Nam của thực
dân Pháp. Độc giả nên tìm đọc thiên khảo cứu này cùng với hai cuốn sử rất có
giá trị khác, cuốn Thập Giá và Lưỡi
Gươm
của Linh Mục Trần Tam Tĩnh, và cuốn Bước
Mở Đầu của sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ,
để thấy rõ những thảm họa do những giáo sĩ này mang tới đất nước Việt Nam. Qua
ba tác phẩm này và nhiều tác phầm khác của các sử gia ngoại quốc, chúng ta có
thể thấy rõ rằng, đạo Gia Tô La Mã đã mang tới Việt Nam bao bất hạnh xui xẻo
chứ không phải là đã gặp bao bất hạnh xui xẻo khi tới Việt Nam như linh mục Kim
Định đã viết. Điều này sẽ được chứng minh trong phần trình bày sau đây.
Vấn
nạn Gia Tô ở Việt Nam
là một vấn đề rộng lớn, cần có một công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về mọi
khía cạnh. Trong cuốn sách này, tôi chỉ xin luận về hai điểm mà các "sử
gia" Gia Tô Việt Nam
thường đưa ra:
1.
Các thừa sai Gia Tô tới Việt Nam để rao giảng "tin mừng Phúc Âm" và
"khai sáng dân tộc Việt Nam"; và 2. Các triều đình nhà Nguyễn ngu dốt
cùng với bọn quan lại Tống Nho thủ cựu cấm đạo và bách hại giáo dân chỉ vì họ
theo một đạo mới.
Các
"sử gia" này không bao giờ nhắc đến những hành động phá hoại, gây
chia rẽ v...v..., của các giáo sĩ thừa sai đối với dân tộc Việt Nam, và cũng
không bao giờ nhắc tới những nguyên nhân của sự cấm đạo.
Đọc
những cuốn sử viết về những hành động của các giáo sĩ và giáo dân tân tòng ở
Việt Nam chúng ta thấy các tác giả thường chia làm hai khuynh hướng: khuynh
hướng của các nhà viết sử thực dân, của các giáo sĩ và tay sai viết theo những
quan điểm chủ quan, gian dối, đầy thiên kiến và sai lạc; và khuynh hướng của
các sử gia, học giả vô tư, xét đoán sự việc dựa theo những tài liệu hiện hữu,
sau khi cân nhắc, phân tích kỹ càng, cặn kẽ những tài liệu này.
Hai
khuynh hướng trên đã được sử gia Mark W. McLeod, Giáo sư đại học, viết trong
phần dẫn nhập của cuốn The Vietnam
Response to French Intervention, 1862-1874 như sau:
"Những
tiểu luận sống động về lịch sử của Milton Osborne và Jean Chesneaux đã mô tả sự
phát triển về một truyền thống học thuật Pháp mà đặc tính của nó là
"quy-Pháp và thiên Pháp". Chúng ta có thể xét sự thiên vị này theo
những giá trị đã gây cảm hứng và thấm nhập vào sự nghiên cứu lịch sử, sự chú
trọng vào những chủ đề chính của tác phẩm, và sự chọn lựa những nguồn tài liệu.
Giá trị của những tác giả Pháp, đặc biệt là những người viết về thế kỷ 19, đều
bị ảnh hưởng bởi những thái độ thực dân thịnh hành, tự tôn, về nền văn hóa ưu
việt Tây phương, và đi cùng với "nhiệm vụ văn minh hóa" của nước
Pháp. Để ra ngoài những biệt lệ xuất sắc của Charles Maybon và Leopold Cadière,
những binh sĩ Pháp, nhân viên hành chánh thuộc địa, và những giáo sĩ thừa sai,
những người mở đầu cho cuộc nghiên cứu của Tây phương về lịch sử Việt Nam,
thường thường đặt mình vào trọng tâm của những câu chuyện do chính mình viết
ra.
...Cũng như ở
trong những quốc gia đã được giải phóng khỏi ách thực dân gần đây, Việt Nam đã làm sống
lại việc viết lịch sử sau khi lấy lại được nền độc lập chính trị. Tuy rằng sự
phân chia chính trị sau thời kỳ thuộc địa đã tạo nên hai trường phái nhìn lịch
sử đối ngược nhau mà chúng ta có thể gọi một cách thuận tiện là trường phái
"Hà Nội" và "Sài Gòn", nhưng những sử gia Việt Nam mới này
đều nhất trí bác bỏ những luận điệu "quy Pháp" đã chi phối và còn
đang là những đặc tính của hầu hết các tác phẩm viết về sử Việt Nam.
Những sử gia
này đã phát động một sự phân tích vấn đề những giá trị thuộc địa trong những
tác phẩm của các tác giả Pháp trong thời xưa, họ nhấn mạnh vào cách tiếp cận
"quy - Á Châu" khi xét về lịch sử Việt Nam, và họ dựa vào sự nghiên
cứu những tài liệu bản xứ cũng như của Pháp. Một vài học giả Pháp và Tây phương
đã theo những sử gia Việt Nam
trên đường hướng mới này.
... Tác phẩm
nghiên cứu này có mục đích sửa lại một phần vấn đề diễn giải lịch sử về một
thời kỳ quyết định mà các tác giả Tây phương hiện đại thường không để ý tới.
Trọng tâm của cuộc nghiên cứu này là Phản Ứng của Việt Nam Trước Sự Can Thiệp
của Pháp trong những năm 1862-1874, nghĩa là, trong thời kỳ mà Pháp thiết lập
địa vị của mình ở Nam Kỳ (1862, 1867), rồi tiến đến việc bảo hộ Bắc Kỳ và Trung
Kỳ (1873-1874).
Cuộc khảo cứu
này phản bác lập trường "quy Pháp và thiên Pháp" của những thừa sai
Pháp, những tác giả và giới chức thực dân, và của những tác giả Tây phương về
sau, bằng cách đối chiếu sự diễn giải lịch sử của họ với những bằng chứng trong
các tài liệu chính của Việt Nam, hầu hết những tài liệu này đều chưa được các
nghiên cứu gia Tây phương sử dụng khi viết về giai đoạn lịch sử Việt Nam này.
Những tác phẩm của hai tác giả Gia Tô Việt Nam - Phan Phát Huồn và Nicole
Dominique Le, cũng sẽ được phê bình khi hiển nhiên là họ đã dựa vào nguồn tư
liệu của giới thừa sai Pháp, và không cân nhắc tài liệu cẩn thận đến độ lập lại
những sai lầm của những tác giả Pháp thời xưa; điều này rõ rệt nhất khi họ thảo
luận về cách đối xử của triều đình Huế đối với các tín đồ Gia Tô sau khi ký
hiệp ước 1862."
(Historiographical
essays by Milton Osborne and Jean Chesneaux have described the growth of a
tradition of French scholarship on Vietnam that is characterized by a
"Franco-centric bias". This bias can be considered in terms of the
values that inspire and permeate the historical study, the focus of primary
subject of the work, and the selection of source material. The values of the
French authors, especially those who treated the 19th century, were influenced
by the prevalent, self-reinforcing colonial attitudes about European cultural
superiority and the concomitant "civilizing mission" of France.
Brilliant exceptions such as Charles Maybon and Leopold Cadière aside, the
French soldiers, colonial administrators, and missionaries who initiated
Western historical investigation of Vietnam generally made themselves
the focus of their own histories.
...As
in other recently decolonized countries, a renaissance of historical writing
followed political independence in Vietnam. Although Vietnam's extended post-colonial political
division produced two antagonistic historical schools, which may conveniently
be termed those of "Hanoi" and
"Saigon", the new Vietnamese historians are unanimous in rejecting
the "Franco-centric bias" that had dominated and still characterizes
much French historical writing on Vietnam. These Vietnamese
historians initiated a critical questioning of the colonial values of the early
French authors; they emphasized the "Asia-centric" approach to
Vietnamese history; and they based their research on indigenous as well as
French source. Some French and other Western scholars have followed the
Vietnamese historians in this new orientation.
...The
present study seeks to provide a partial corrective for the problems of
historical interpretation resulting from the neglect by modern Western scholars
of this decisive period in Vietnamese history. The focus is the official
Vietnamese response to French intervention during the years 1862-1874, that is,
the period during which the French established a foothold in Southern
Vietnam (1862, 1867) and extended their protectorate over the
North and Center (1873-1874). The study counters the "French-centric
bias" of French missionaries, colonial officials and authors, and
subsequent Western scholars by confronting their interpretation with evidence
from primary Vietnamese documentation, most of which has yet to be utilized by
Western researchers for a history of this period. The works of two Vietnamese
Catholic authors - Phan Phat Huon and Nicole-Dominique Le - are likewise to be
criticized when it is evident that their reliance on the French missionary
source and/or their failure to critically evaluate them has led to a
reiteration of the errors of the early French authors; this occurs most
noticeably when they discuss the question of Hue's treatment of the Catholics
after the signing of the 1862 treaty.)
Cùng
một chiều hướng khảo cứu dựa trên những tài liệu chỉ mới xuất hiện sau khi chế
độ thực dân ở Việt Nam cáo chung, Tiến sĩ Cao Huy Thuần cũng đã viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam, bản dịch đầu của
luận án tiến sĩ "Giáo Sĩ Thừa Sai
Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914”, trg. 502, như sau:
"Những
người viết sử "thực dân" và những người viết sử của Phái Bộ Truyền
Giáo đã cho xuất bản rất nhiều sách về điểm mà họ gọi là "sự đàn áp tôn
giáo ở Việt Nam". Một tác giả Thiên Chúa Giáo Việt Nam cũng đã có viết một
tập giáo khoa - được giải thưởng Hàn Lâm Viện Pháp - để dùng cho các học sinh
trung học Pháp, trong đó y giải thích cho các độc giả trẻ rằng các Vua Việt
Nam, vào thế kỷ thứ 19, đã "đàn áp" các tín đồ đạo cao quý của phương
Tây như thế nào. Chúng tôi hi vọng rằng các tài liệu công bố trong thiên khảo
cứu này cũng đủ khá hùng hồn để chấm dứt các ngụy tạo đó. Thật vậy, cái gọi là
"đàn áp tôn giáo" đó sự thực chỉ là những biện pháp tự vệ mà mọi nước
bị ngọai xâm và nội loạn đe dọa đều bị buộc phải dùng đến nếu không muốn nhận
chịu nguy cơ sụp đổ. Nếu đạo Thiên Chúa Việt Nam bị bài xích, thì việc đó,
chính yếu là do các người đại diện cho đạo. Những người này, bằng những hoạt
động tai hại và ý muốn thống trị của họ, rút cục đã làm cho người Việt Nam thấy Chúa
Christ là tay sai của xâm lăng thuộc địa và văn hóa".
Để
đánh giá những nhận định như trên của Giáo sư McLeod và của Tiến sĩ Cao Huy
Thuần, chúng ta cần trở lại lịch sử, bắt đầu từ khi các giáo sĩ thừa sai Gia Tô
đầu tiên tới Việt Nam và rồi
sau đó họ đã làm những gì cho xã hội và đất nước Việt Nam.
8.1. Vấn đề rao giảng "tin mừng
Phúc Âm".
Có
thể nói, những Giáo sĩ Gia-Tô-Giáo La-Mã đầu tiên đã tới Việt Nam từ giữa thế
kỷ thứ 16 (1533), nhưng thường chỉ ở lại một thời gian ngắn và những hoạt động
của họ không có gì quan trọng đáng phải để ý. Những người ngoại quốc tới Việt
Nam với tư cách là bạn luôn luôn được người Việt Nam đón tiếp niềm nở và coi
như bạn. Thí dụ, năm 1618, một linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha tên là
Christoforo Borri cùng với một số giáo sĩ khác tới Faifo, gần Đà Nẵng. Trong
một văn kiện được lưu trữ ông đã viết như sau, tỏ lòng cảm phục tính tình hiền
hòa và hiếu khách của người Việt Nam ( Helen B. Lamb, Ý Chí Sống Còn Của Việt Nam (Vietnam's Will To
Live), trg. 10):
"Trong khi
các dân tộc Đông Phương khác coi người Âu Châu như là đáng ghê tởm và lánh xa
khi những người này tới gần họ, thì ở Đàng Trong lại ngược lại. Họ niềm nở bắt
chuyện với chúng tôi. Họ rất tò mò và hỏi chúng tôi đủ chuyện. Rất lịch sự và
văn minh, họ mời chúng tôi về nhà dùng bữa cùng họ. Vì sự hiền hòa và thoải mái
trong vấn đề giao tiếp này nên chúng tôi có thể nói chuyện với họ, coi họ như
là bà con trong nhà vậy, ngay cả trước khi biết rõ họ."
(Whereas
other Oriental peoples hold the Europeans in abomination and flee from them
when they come, in Cochinchina it is just the opposite. The people want to talk
to us and are full of curiosity, asking us many questions. With great courtesy
and civility they invite us to their me to dine with them. Because of this
natural grace and customary ease of association, it is possible to communicate
with these people as if they were one's own kith and kin. This is so even
before knowing them well.)
Nhưng
rồi sau đó các giáo sĩ thừa sai Gia Tô, vì đã bị đuổi không còn có thể hành
nghề xúi dục và gián điệp ở Nhật Bản, như chúng ta đã biết, cho nên đã kéo tới
Việt Nam, lợi dụng tính hiền hòa và hiếu khách của dân tộc Việt Nam, không phải
để rao giảng tin mừng Phúc Âm, vì thật ra, theo nhận định của học giả David
Voas, cũng như của Giáo sư Schwartz, người đã từng dạy Thánh Kinh trong 20 năm
tại hai đại học lớn ở Hoa Kỳ, trong Phúc Âm không có chân lý mà cũng không có
tin mừng, trái lại, các giáo sĩ thừa sai chỉ chỉ mang đến những tin xấu, những
chuyện hoang đường để đưa con người vào vòng nô lệ tâm linh, mê tín dị đoan,
tin vào một cái bánh vẽ huyền hoặc trên trời và trong một đời sau, của một tôn
giáo ngoại lai mà lịch sử nhơ nhớp của nó là một sự kiện không ai có thể phủ
nhận.
Trước
khi đi vào chi tiết, chúng ta cần nhớ kỹ trong đầu: sách lược truyền giáo của
Gia Tô La Mã Giáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô,
dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất
và mê tín dị đoan để thu nhặt và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để
huyễn hoặc đầu óc con người v...v..., như đã được trình bày trong những chương
trên. Sách lược này đã được áp dụng trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam, như sẽ
được chứng minh sau đây.
Trong
những giáo sĩ thừa sai có tên tuổi trong lịch sử Gia Tô Giáo ở Việt Nam, trước hết
chúng ta phải kể Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Ở đây, tôi sẽ không bàn tới vấn
đề Rhodes có phải là người sáng lập ra chữ
Quốc Ngữ hay không. Vấn đề này nay đã được giải quyết dứt khoát qua những tác
phẩm như: "Ki-Tô Giáo: Từ Thực
Chất Đến Huyền Thoại", Nhiều Tác Giả, Văn Hóa, 1996; "A. De Rhodes: Người Đầu Tiên Vận Động Pháp Chiếm
Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ", Nhiều Tác Giả, Giao Điểm 1998; "Gián Điệp Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc
Ngữ",
Chu Văn Trình, Văn Sử Địa, 1996.
Tuy
nhiên, để độc giả có một khái niệm về chữ Quốc Ngữ mà giáo sĩ Rhodes
dùng để viết cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", tôi xin trích nguyên văn
một đoạn như sau:
"Ngày thứ
nhít. Ta cầu cừ đức Chúa blời giúp fưc cho ta biét tó tuầng đạo Chúa là nhuầng
nào vì bậy ta phải hay ở thế nầy chẳng có ai fòú lâu; vì chưng ké đến bảy tám
mươi tuếi chảng có nhiềo. Vì bậy ta nên tìm đàng nào cho ta được fòú lâu, thật
là viẹc người cuên tử, khác phép thế gian nầy, dù mà làm cho người được phú
quí; fâũ le chẳng làm được cho ta ngày fau... (Diễn Đàn số 8, 1992, Hoài Văn).
"
Đó
là chữ Quốc Ngữ của Alexandre de Rhodes, người được các tín đồ Gia Tô Việt Nam tôn vinh là có công với nền văn hóa Việt Nam.
Chúng
ta biết rằng, trong cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", giáo sĩ Rhodes đã mạ
lỵ cả ba tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, và Lão Giáo. Ông gọi
đức Phật và đức Khổng Phu Tử bằng những danh từ thiếu văn hóa, phản ánh tư cách
của một con người vô giáo dục, vô đạo đức tôn giáo, và cuồng tín. Ngoài những
hoạt động truyền giáo "thiếu văn hóa" để xâm lăng văn hóa như trên,
và sự "đóng góp" cho nền văn hóa Việt Nam bằng một tác phẩm truyền
đạo hạ cấp như cuốn "Phép Giảng 8 Ngày...", và một cuốn tự điển
Việt-Bồ-La Tinh mà xuất xứ thuộc loại bất minh, Rhodes đã làm những gì cho dân
tộc Việt Nam? Sau đây là vài tài liệu về những hoạt động của ông khi ông xâm
nhập hợp pháp cũng như bất hợp pháp vào đất nước Việt Nam. Rhodes bị trục xuất
khỏi Việt Nam năm 1630, trở lại Việt Nam bất hợp pháp năm 1640, và rồi lại bị
trục xuất năm 1645.
Trong
cuốn Vietnam's Will To Live, trg. 11, Helen B.
Lamb viết như sau:
"Cha
Alexandre de Rhodes, một thừa sai dòng Tên khác, cũng đã đã để lại cho hậu thế
một bản ghi chép lời tường thuật về những kinh nghiệm của ông ở miền Bắc (người Tây phương
gọi là Bắc Kỳ) cũng như ở Nam Kỳ trong
thế kỷ 17. Là người có đầu óc thực tế, những ấn tượng tốt của ông về Việt Nam
không phải là sự duyên dáng của người dân Việt mà là về những cái khác. Ông lấy
làm kinh ngạc trước mức độ buôn bán trong những thị trấn ở Việt Nam, và giải
thích như sau: "Họ rất giầu vì đất đai màu mỡ. Có 24 con sông chảy qua
khắp nơi, rất thuận tiện cho việc di chuyển bằng đường thuỷ đi tới nhiều nơi,
rất dề dàng cho việc buôn bán."
(Father
Alexandre de Rhodes, another Jesuit missionary, has also left a record for
posterity; his account tells of his experiences in the North (called Tonkin by
Westerners) as well as in Cochinchina in the 17th century. Being of a seemingly
practical turn of mind, he was impressed by other things than the grace of the
people. He was amazed by the amount of trade carried on in Vietnamese towns,
and gave the following explanations: "They are very rich because the land
there is fertile. It is watered by twenty-four rivers, which are marvellously
convenient for traveling by water to all places in the country, and this serves
to facilitate trade and travel.)
Trong
cuốn Catholic Imperialism Against The
Asiatic Continent,
trg. 352, Avro Manhattan đã viết về những hoạt động gián điệp của giáo sĩ Đắc
Lộ như sau:
"Cha
Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ dòng Tên, tới Đông Dương vào năm 1610, và chỉ
10 năm sau ông đã có thể gửi về một phúc trình mô tả chính xác những khả năng
của Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Những giáo sĩ thừa sai dòng Tên được tuyển mộ ngay và
phái sang Việt Nam để giúp Alexandre de Rhodes trong hai nhiệm vu: cải đạo
người dân ở hai miền vào tín ngưỡng Gia Tô và thăm dò những tiềm lực thương mại
của các miền này cho vương quốc Pháp. Những sứ mạng này, theo quan điểm của La
Mã và Ba Lê (Paris), không thể tách rời nhau được vì chúng là những bước đầu
quan trọng nhất dẫn tới sự xâm chiếm chính trị vá quân sự những xứ này."
(Père
Alexandre de Rhodes, a Jesuit, arrived in Indochina about 1610, and only a
decade later he was able to send a very accurate description of the
possibilities of Annam and Tonkin. French Jesuits were promptly recruited and
were sent to help him in his double work of converting those nations to the
Catholic faith and of exploring the commercial potentialities of these regions
for the French crown. These tasks, in the eyes of both Rome and Paris, could
not separated, being the two most important stepping-stones which would lead
eventually to the political and military occupation of these countries.)
Cao
Huy Thuần đã trích dẫn một tài liệu như sau trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam..., trg. 48, vạch rõ ý
đồ thực dân của Rhodes:
"Tôi tin
rằng nước Pháp," ông (Rhodes) viết, " vì là nước ngoan đạo nhất trên
thế giới nên sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh lính để đi chinh phục toàn thể
phương Đông, ở đó tôi sẽ kiếm ra cách để có những giám mục vốn là những Cha và
Thầy của chúng ta trong những giáo hội đó. Tôi rời La Mã ngày 11 thàng 9, 1652
với ý định đó. "
(J'ai
cru que la France, écrivait il, étant le plus pieux royaume du monde, me
fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l'Orient, que
j'y trouverais moyen d'avoir des évêques qui fussent nos Pères et nos Maitres
en ces Églises. Je suis sorti de Rome à ce dessein, le 11 Septembre 1652.)
Câu
văn trên phân biệt rõ ràng lính chiến, binh lính (soldats) với các giám mục
(évêques) thế mà vẫn có người cho rằng "soldats" chỉ các thừa sai.
Ngoài ra, nếu đã dùng các thừa sai để đi chinh phục toàn thể phương Đông thì
thừa sai đã có sẵn đó rồi, việc gì phải nói là "tôi sẽ kiếm ra cách để có
các giám mục thừa sai"? Dịch "soldat" là thừa sai một cách gượng
gạo như trên để chạy tội cho một tên giáo sĩ chủ mưu xâm chiếm Việt Nam bằng võ
lực mà cũng có người viết ra được thì chúng ta phải hiểu cái di sản Đắc Lộ đã
để lại cho một số người dân Việt Nam nó tệ hại như thế nào..
Và
Yoshiharu Tsuboi viết trong cuốn Catholicism
et Sociétés Asiatiques, trg. 136, về "nghệ thuật" phóng đại sự việc để
lừa dối chính quyền Pháp cũng như Tòa Thánh Vatican của Rhodes như sau:
"Vào
khoảng 1650, Alexandre de Rhodes tuyên bố rằng, người Việt Nam cải đạo theo Gia
Tô giáo với nhịp độ 15000 một năm, con số mà khoảng hai mươi năm sau, những
thừa sai Pháp cho rằng đã phóng đại, vì họ
chỉ thấy có độ 60000 thay vì 200000 tín đồ Ki Tô như các giáo sĩ dòng Tên đã
tuyên bố."
(Alexandre
de Rhodes annonce, vers 1650, que les Vietnamiens se convertissent au rythme de
15000 par an, chiffre que, quelque vingt années plus tard, les missionaires
francais jugeront exagéré, ne comptant quant à eux qu'environ 60 000 chrétiens
au lieu de 200 000 annoncés par les jésuites.
Qua
bốn tài liệu vừa trích dẫn ở trên, chúng ta có thể rút tỉa những gì?
Thứ
nhất, Alexandre de Rhodes đến Việt nam để làm công việc của một gián điệp:
nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế, địa thế, dân tình v...v... của Việt
Nam để hoạch định kế hoạch xâm chiếm Việt Nam bằng võ lực và sau đó dùng bạo
lực để truyền bá đạo.
Thứ
nhì, Rhodes, tối mắt bởi đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú của Việt Nam, là
giáo sĩ Gia Tô đầu tiên tích cực vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam
bằng hai cách: gợi lòng tham của Pháp và báo cáo sai sự thực, phóng đại về tình
hình cải đạo của dân chúng Việt Nam.
Thứ
ba, với một đầu óc cuồng tín của những sản phẩm xuất thân từ cái lò đào tạo
dòng Tên, Rhodes đã xuyên tạc sự thật, cũng có thể là ngu đần không biết đến sự
thật, nên đã viết cuốn Phép Giảng 8 Ngày.... trong đó ông mạ lỵ cả ba tôn giáo
lớn ở Việt Nam là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, cũng như mạ lỵ những truyền
thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Rhodes
đã thành công trong ý định xâm chiếm Việt Nam bằng võ lực của mình, nhưng thành
công nhất là Rhodes đã để lại cho giáo dân Việt Nam một nền đạo lý mà giáo sư
sử Nguyễn Mạnh Quang, trong cuốn Việt
Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư, 1954-1963, (1998), gọi là nền đạo lý Thiên La - Đắc
Lộ. Nền đạo lý Thiên (Chúa Giáo) La (Mã) - Đắc Lộ này, theo định nghĩa của Giáo
sư Quang, là "sự tổng hợp của
sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo
và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của giáo
sĩ Đắc Lộ (Alexandre
de Rhodes)."
Thật
là khó hiểu, một giáo sĩ ngoại quốc thuộc loại cuồng tín, đạo đức kém cỏi, đã
hai lần bị trục xuất khỏi Việt Nam vì những hành động gián điệp, phá hoại, mạ
lỵ tôn giáo và nền văn hóa Việt Nam như vậy mà ngày nay vẫn còn những người có
đầu mà không có óc muốn tôn vinh ông, dựng bia đá tượng đồng thờ phụng, đặt tên
ông trên đường phố cùng hàng với tên của các danh nhân lịch sử Việt Nam, những
anh hùng liệt sĩ Việt Nam đã bỏ mình vì nước. Với một tâm cảnh cuồng tín, vọng
ngoại, nô lệ như vậy, thử hỏi những người này làm sao có thể tạo một chỗ đứng
trong lòng đại khối dân tộc?
Nối
nghiệp Alexandre de Rhodes là hai Giám mục Francois Pallu và Lambert de la
Motte, được Giáo hoàng bổ nhiệm cai quản hai địa phận truyền giáo đàng ngoài và
đàng trong tại Việt Nam, năm 1658. Theo tài liệu trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam của Cao Huy Thuần và
cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh mục Trần
Tam Tĩnh thì hai Giám mục Pallu và Lambert đã quan tâm nhiều đến việc thành lập
các công ty buôn bán, ngụy trang giáo sĩ dưới dạng lái buôn, để xúc tiến việc
rao giảng "tin mừng Phúc Âm" qua "tham vọng và óc xâm lăng của
các nhà truyền giáo muốn bành trướng, xây dựng các hãng buôn khắp nơi, nhất là
ở Bắc Kỳ để thiết lập các phái bộ truyền giáo của họ"; Cao Huy Thuần,
Sđd., trg. 49.)
Trong
cuốn Việt Nam: Một Lịch Sử Chính Trị (Vietnam: A
Political History), Joseph Buttinger viết:
"Đặc biệt,
Francois Pallu, một thừa sai, là một tên chủ mưu chính trị đã đi quá những huấn
thị trao cho hắn. Người ta có thể gọi hắn là người sáng chế ra thủ đoạn thực
dân tạo chính sách ở Paris bằng phương pháp "đặt chính quyền Pháp trước sự
đã rồi."
(Francois
Pallu, a missionary, in particular was a political schemer who went far beyond
his instructions. He might be called the inventor of the colonial practice of
shaping policy in Paris by the method of "fait accompli".)
Xét
lịch sử, chúng ta có thể nói, Gia Tô La Mã Giáo chỉ phát triển mạnh ở Việt Nam
từ khi Giám Mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, và sau đó, các
giáo sĩ thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam. Sau đây,
tôi sẽ trình bày phần nào chi tiết vai trò của các Giáo sĩ thừa sai xâm nhập
Việt Nam để truyền đạo, thường được các giáo sĩ và đám nô lệ bản địa cho rằng
để rao giảng "tin mừng Phúc Âm" cùng khai sáng, văn minh hóa dân tộc
Việt Nam, kể từ Giám mục Bá Đa Lộc trở về sau.
Trước
hết, chúng ta hãy xét đến bản chất của Giám mục Bá Đa Lộc qua vài tài liệu sau
đây:
1.
Helen B. Lamb, Ibid., trg. 63:
"Bá đa Lộc
biết rõ rằng người mà hắn bao che giúp đỡ (Nguyễn Ánh) không được sự ủng hộ của
dân chúng. Năm 1791 Giám mục viết: "Hiện nay hắn (Nguyễn Ánh) đã chồng
chất trên dân tộc hắn gánh nặng thuế má và cưỡng bức lao động, và có vẻ như đám
dân nghèo khổ quá đau khổ bởi đói kém này mong muốn sự tiến tới của nhà Tây
Sơn.
Giám mục đã góp
những gì cho cuộc chiến thắng sau cùng của Nguyễn Ánh? Ông ta là một chiến
thuật gia giỏi với một kiến thức sâu rộng về binh bị và một tinh thần kiên trì,
và ông ta đã xin được tiền của các thương gia Viễn Đông để cung cấp cho Nguyễn
Ánh những tàu chiến, vũ khí, và vài trăm lính đánh thuê Tây phương, hầu hết là
dân Pháp."
(Pigneau
de Béhaine became acutely aware that his protégé did not really command
Vietnamese support. In 1791 the Bishop wrote: "He (Nguyen Anh) has
overwhelmed his people at this moment with taxes and forced labors, and the
poor people are so tormented by famine that they desire, it seems, the arrival
of the Tay Son."
What
did the Bishop contribute to the final victory of Nguyen Anh? He was a good
strategist with an extensive knowledge of the military arts and an indomitable
spirit, and he raised money from Far Eastern traders to provide Nguyen Anh with
ships, arms, and a few hundred European mercenaries, mostly French.)
2.
Harry Hass & Nguyen Bao Cong trong Vietnam: The Other Conflict, trg. 3:
"Năm 1787
Giám mục thừa sai (Bá Đa Lộc), nhân danh Nguyễn Ánh, ký một hiệp ước ở
Versailles, theo đó Pháp hứa sẽ dùng những lợi thế thương mại để giúp (Nguyễn
Ánh). Khi những lời hứa của triều đình Pháp chỉ là những lời hứa suông, Giám
mục Bá Đa Lộc đã vận dộng những thương gia Pháp ở Mauritius và Pondicherry giúp
đủ tiền để ông thành lập một đoàn quân lính đánh thuê nhỏ. Những tên lính đánh
thuê và cố vấn này đã giúp Nguyễn Ánh rất nhiều trong việc đánh bại nhà Tây
Sơn.
Một tác giả
người Anh đã gọi cái xí nghiệp này là "bộ truyền giáo quân sự Tây phương
đầu tiên, chỉ huy bởi một Giám mục Gia Tô."
..Cũng
cần phải nói thêm rằng một loại trợ giúp quân sự khác của các nhà truyền giáo
cho các phe đánh nhau ở Việt Nam là: súng ống và nghệ thuật chế tạo cùng sử
dụng chúng."
(In
1787 the missionary Bishop (Behaine) signed a treaty in Versailles on behalf of
his client (Nguyen Anh), which promised aid from the commercial advantages for
France. When the Court's favor proved to be empty promises, Bishop Pigneau de
Béhaine obtained help from French merchants at Mauritius and Pondicherry,
enabling him to raise a small mercenary army. Mercenaries and advisers were of
great help to Prince Nguyen Anh in defeating his adversary.
A
British author called his enterprise the first Western military mission,
commanded by a Catholic Bishop...
...Something
has to be said here about another sort of military aid which was provided by
Missionaries to warring Vietnamese dynasties: guns and the art of using and
making them.)
3.
Hal Dareff trong The Story of Vietnam, trg. 28:
"Điều đặc
biệt là vị hoàng tử 16 tuổi, Nguyễn Ánh, đang chạy trốn nhà Tây Sơn và được Giám
mục Gia Tô Bá Đa Lộc che trở, cung cấp cho chỗ ăn chỗ ở. Kể từ khi Giám mục có
hành động ban ơn huệ này, đời sống của vị hoàng tử trẻ tuổi đã thay đổi và có
một ý nghĩa mới. Đứng về một phe trong một cuộc nổi loạn là một hành động chính
trị, và Bá Đa Lộc hiểu rõ như vậy. Ông đã chọn đứng về phe Nguyễn Ánh và bây
giờ ông phải tiếp tục dù thắng hay bại. Có một khía cạnh cá nhân trong quyết
định của Bá Đa Lộc, vì Giám mục, một người với nhiều tham vọng, có những kế
hoạch riêng để chinh phục môt vương quốc. Suốt 20 năm còn lại của cuộc đời, ông
đã theo đuổi hai mục tiêu chính: giúp cho Nguyễn Ánh lên làm vua, và chiếm Nam
Kỳ cho nước Pháp.
Những thành quả
của Bá Đa Lộc thật là đáng kể, nhưng ông đã thất bại trong mưu đồ thực hiện hai
điều mà ông mong muốn nhất: thiết lập một vương quốc cho Pháp và làm cho Nguyễn
Ánh cải đạo theo Ki Tô Giáo, do đó Nam kỳ sẽ đặt dưới quyền cai trị của một ông
Vua theo đạo Gia Tô.
.. Thật là khôi
hài khi chúng ta thấy rằng, dưới những triều Nguyễn xây dựng bởi Nguyễn Ánh khi
ông thực sự lên làm Vua, những tín đồ Gia Tô lại bị bạo hành dữ dội như chưa
bao giờ từng bị như vậy."
(...The
one exception was the 16-year old Prince Nguyen Anh, who in that same year fled
the avenging Tay Son and found sanctuary with the Catholic Bishop Pigneau de
Béhaine. Pigneau took the young prince in and gave his shelter. From the very
moment he performed this act of mercy, the life of the youthful prelate changed
and took on new meaning. To take sides in a revolt is a political act, and
Pigneau understood this very well. He had made his choices now he would have to
stand or fall by it. There was a personal side as well to Pigneau de Béhaine's
decision, for the Bishop, a man of large ambition, had plans for his own for
conquest an empire. The remaining 20 years of his life would be spent in
pursuit of two main goals - to make his young prince an emperor and to win
Cochinchina for France.
...Pigneau's
accomplishments had indeed been noteworthy, but he had failed at two things he
wanted most to achieve - to carve out an empire for France and to convert
Nguyen Anh to Christianity so that Cochinchina would be ruled by its first
Catholic emperor.
It
is therefore ironic to note that under the dynasty founded by Nguyen Anh when
he did become emperor, Catholics were more violently persecuted than they had
ever been before.)
Qua
những tài liệu vừa trích dẫn, chúng ta không thể không tự hỏi: Cái thứ Giám mục
Gia Tô như Bá Đa Lộc ở trên là thứ Giám mục gì vậy? Bá Đa Lộc là một Giám mục,
nhưng bản chất của ông, cũng như của nhiều giáo sĩ thừa sai khác, là một tên
lính đánh thuê chuyên nghiệp (professional mercenary). Ông biết Nguyễn Ánh
không được lòng dân, và đám dân nghèo đang chịu đựng những cảnh bất công trong
xã hội, nhưng ông lại gây quỹ, tuyển mộ lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh, đi
ngược lại lòng dân. Vậy ông đến Việt Nam để "giải thoát" người nghèo,
như các "sử gia" Gia Tô thường ca tụng, hay là mưu đồ dựng lên một vị
Vua theo Gia Tô Giáo để dễ dàng việc truyền đạo, dù vị vua đó không được lòng
dân?
Sau
Giám mục Bá Đa Lộc là những Linh mục, Giám mục tới Việt Nam với mục đích rõ rệt
là phá hủy nền văn hóa Việt Nam, và vận động chính phủ Pháp xâm chiếm Việt Nam,
biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Trong số này chúng ta phải kể đến những
Giám mục Huc, Retord, Pellerin, Gauthier, Puginier v..v.. Tất cả đều có những
hoạt động gián điệp với sự tiếp tay của một số không nhỏ tín đồ Gia Tô bản xứ.
Hiện nay, những sử liệu về hoạt động gián điệp và gian ác thế tục của họ không
thiếu. Sau đây tôi chỉ đưa ra vài tài liệu để cho chúng ta thấy bộ mặt thật của
những người đi rao giảng "tin mừng Phúc Âm" .
Trong
cuốn Vietnam's Will to Live, trg. 79, Helen B.
Lamb viết châm biếm như sau:
"Những
công tác của những giáo sĩ như là Cha Retord gồm có thu thập tin tức về vùng bờ
biển, sông ngòi, và sự phòng vệ Huế. Ngoài việc là một nguồn tin tức chủ yếu
cho hải quân Pháp, những giáo sĩ còn làm những xách-động viên, nhân danh
450,000 giáo dân mà họ tuyên nạp vào giữa thế kỷ thứ 19, sẵn sàng đưa một quốc
gia 10 triệu người vào vòng chết chóc và tàn phá toàn diện - lẽ dĩ nhiên là để
cứu quốc gia này."
(The
labors of such missionaries as Father Retord had included intelligence on
coastal areas, rivers, and the defense of Hue. Besides being a vital source of
information for the French navy, the missionaries played the role of outside
agitators who, in the name of 450,000 Vietnamese converts they claimed by the
mid-19th century, were willing to plunge a country of 10 million people into
wholesale death and destruction - in order, of course, to save it.)
Trong
cuốn Việt Nam Pháp Thuộc Sử, Giáo sư Phan Khoang
viết:
"Những
người đề xướng cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải quân của hạm đội
Pháp ở biển Trung Quốc..nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho chính phủ
Pháp quyết định là các giáo sĩ, nhứt là giáo sĩ Huc, Giám mục Retord, Giáo sĩ
Libois và Giám Mục Pellerin..
Vậy
thì, những lời hoa mỹ như "rao giảng tin mừng Phúc Âm", "văn
minh hóa" dân tộc mọi rợ Việt Nam v...v... của các giáo sĩ thừa sai chẳng
qua chỉ là những lời tuyên truyền giả dối để che đậy thực chất nhơ bẩn, đồi bại
của những kẻ cuồng tín mà lịch sử đã chứng minh rằng, một tay cầm cuốn Thánh
Kinh, còn tay kia cầm gươm giáo hoặc súng ống để "thuyết phục" những
người đần độn , thường thuộc giai cấp cùng đinh, đầu óc mù mịt, tin theo những
điều hoang đường nhất trong những điều hoang đường, như những nhà nghiên cứu
tôn giáo đã chứng minh.
Sau
đây, tôi sẽ đi vào vấn đề cấm đạo và bách hại giáo dân mà các giáo sĩ thừa sai
và những "tôi tớ hèn mọn" của họ thường xuyên tạc, phóng đại để thuyết
phục chính phủ Pháp xâm chiếm Việt Nam.
8.2. Vấn Đề Cấm Đạo và Bách Hại Giáo
Dân.
Không
ai có thể phủ nhận sự kiện lịch sử là ở Việt Nam có hiện tượng cấm đạo và bách
hại những người theo đạo Gia Tô, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh cho tới hết
triều Tự Đức, khi mà Pháp đã dùng vũ lực hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam.
Luận
cứ của các giáo sĩ thừa sai Gia Tô và những tay sai bản địa là: sở dĩ có những
cuộc bách hại giáo dân là vì, từ Vua tới quan cho tới hàng sĩ phu và dân thường
ở Việt Nam đều thuộc loại ngu dốt, không chịu chấp nhận "tin mừng Phúc
Âm", nghĩa là chấp nhận làm tôi tớ hèn mọn cho Chúa Giê-su, một người Do
Thái đã khẳng định rằng: "Ta được
sai đến đây để cứu giúp đàn chiên đi lạc của nhà Israel (nghĩa là dân Do
Thái) mà thôi - chứ không phải để lo
cho người nước ngoài" (Mã-Thi 15: 24, Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, Nguồn
Sống, 1994), nhưng thực ra chỉ làm tôi tớ hèn mọn cho Tòa Thánh Vatican, cho
Giáo hoàng và các Giám mục, Linh mục, những kẻ tiếm vị Chúa trên trần, tự cho
mình những thần quyền hoang đường phi lý như đại diện của Chúa trên trần, thay
Chúa để tha tội cho con chiên... trong khi lịch sử đã chứng minh trong số những
Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục này không thiếu gì những kẻ sát nhân, vô luân,
vô đạo đức, trí tuệ đần độn, tư cách hèn hạ v...v... Luận cứ này phản ánh những
tâm cảnh cuồng tín, trí tuệ kém cỏi, kiến thức hẹp hòi, xuyên tạc sự thật và
không có gì xa sự thật hơn.
Chúng
ta đã biết, trong phần nói về "phép lạ" La Vang, việc cấm đạo dưới
thời Tây Sơn không phải vì lý do tôn giáo. Trước khi đi sâu vào vấn đề cấm đạo
với nhiều chi tiết đầy đủ hơn, tôi muốn đưa ra dây hai nhận định điển hình.
Ông
Lý Chánh Trung, một nhà trí thức Gia Tô, trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc nhận định rằng:
"Tuy nhiên
lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo hội (La Mã) đã trở thành quốc giáo thì cây
gươm tinh thần của Thánh Phao-Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm
thép thực sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, giáo hội đã không ngần
ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "Tà
Thần", đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc
đạo" nếu không chịu sửa sai.
...Ngày nay mọi
người đều đồng ý rằng việc cấm đạo dưới các Vua triều Nguyễn là một hành động
bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các vị Vua ấy,
và cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác
hơn" (Ông
Lý Chánh Trung đã không xét đến những khung cảnh xã hội, chính trị đã tạo ra
cái khung cảnh tâm lý đó. So với những hành động cấm đạo, diệt đạo rất quyết
liệt và tàn nhẫn của Nhật Bản thì sự cấm đạo ở Việt Nam không thể gọi là bất
nhân hay sai lầm. Đó là biện pháp cực chẳng đã để đối phó với những kẻ phản bội
quốc gia và rất là nhân nhượng vì các triều Nguyễn luôn luôn chủ trương giáo
dục trước khi dùng đến bạo hành như những tài liệu trong một phần sau chứng tỏ.
TCN)
Và,
Tiến sĩ Cao Huy Thuần cũng viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam, trg. 502, như sau:
"... cái
gọi là "đàn áp tôn giáo" đó sự thực chỉ là những biện pháp tự vệ mà
mọi nước bị ngọai xâm và nội loạn đe dọa đều bị buộc phải dùng đến nếu không
muốn nhận chịu nguy cơ sụp đổ. Nếu đạo Thiên Chúa Việt Nam bị bài xích, thì
việc đó, chính yếu là do các người đại diện cho đạo. Những người này, bằng
những hoạt động tai hại và ý muốn thống trị của họ, rút cục đã làm cho người
Việt Nam thấy Chúa Christ là tay sai của xâm lăng thuộc địa và văn hóa".
Nhận
định của ông Lý Chánh Trung cho chúng ta biết sách lược truyền đạo man rợ của
Gia Tô La Mã Giáo, và nhận định của Tiến sĩ Cao Huy Thuần cho chúng ta thấy
những biện pháp tự vệ của Việt Nam trước sách lược truyền đạo trên. Xét theo
bối cảnh lịch sử thế giới trong những thế kỷ 16-19 thì chúng ta phải nói rằng,
căn bản căm phẫn của các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và tay sai bản địa về việc
cấm đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam thật là yếu ớt một cách lố bịch: "Vì chính trong những khoảng thời gian này, Gia
Tô Giáo đang tàn sát những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân
Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng Thánh Vấn (Holy Office of the Inquisition = Cơ
Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị
giáo từ Granada tới Goa." (Dennis Bloodworth)
Như
vậy, căn bản căm phẫn của họ thực ra là đặt trên cái lý lẽ đầy bất công và man
rợ của kẻ mạnh, mạnh vì gươm giáo, súng ống, chứ không phải mạnh về tinh thần
hay đạo đức: là con Chúa thì có quyền đi tra tấn, tàn sát, thiêu sống người
ngoại đạo vì họ không có cùng một niềm tin như các con Chúa, còn người ngoại
đạo thì không có quyền đụng tới con Chúa ngay cả khi những con Chúa này thuộc
loại phản quốc.
Sau
đây chúng ta hãy thử phân tích vấn đề cấm đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam
qua một số tài liệu. Một trong những tài liệu có tính cách tổng hợp về sự du
nhập của Gia Tô Giáo vào Việt Nam là của Helen B. Lamb, trong cuốn Vietnam's Will to Live. Sau đây là vài đoạn
trong đó, xin độc giả để ý đến những lời văn châm biếm rất ý nhị của tác giả..
"Những sự
giao tiếp giữa Pháp và Việt Nam từ thế kỷ 17 trở đi đều theo một mô thức cổ
điển xâm nhập Á Châu của Tây phương. Mới đầu là các thừa sai và con buôn. Rồi
các nhà ngoại giao đến can thiệp, nhân danh cả hai, và cuối cùng, quân lính
tiến vào, áp đặt sự thống trị của ngoại quốc - lẽ dĩ nhiên là để làm tốt cho
dân bản xứ.
Động cơ chính
để một nước đi chiếm thuộc địa và những vùng ảnh hưởng là sự chiếm hữu một cái
gì đó, quyền lực, uy tín, của cải, hay những thứ cưỡng đoạt được...Trong trường
hợp nước Pháp, họ đặt nặng vấn đề tôn giáo. Là những người cầm đuốc soi sáng
cho những người khác về chủ thuyết Gia Tô, người Pháp đã lao mình vào một cuộc
Thánh chiến để mang tới cho dân Việt Nam món quà vô giá, cơ hội để sống đời
đời, bất tử.
Chỉ
khi nước Pháp trở thành thế tục hơn trong thế kỷ 19, họ mới đặt nặng chiêu bài
"nhiệm vụ văn minh hóa" - trong những quốc gia mà niềm tự hào về nền
văn minh cổ của họ rất là chính đáng.
...Dù các con
buôn bị đối đãi lạnh nhạt đến đâu thì các thừa sai Tây phương còn bị nghi ngờ
hơn nữa. Sau năm 1645, khi Alexandre de Rhodes bị bắt cầm tù và rồi bị trục
xuất, theo những con buôn người Anh tới giao thương ở Việt Nam thì các thừa sai
phải ngụy trang dưới dạng con buôn.
...Một triết
gia Đông phương hiện đại, khi giải thích về sự đối kháng của Á Châu đối với
những nhà rao bán Phúc Âm Ki Tô Giáo (truyền giáo), đã nhấn mạnh đến thái độ
kiêu căng điển hình của thừa sai Ki Tô như sau:
"Cái óc
Tây phương của các ông thường quá bị ám ảnh bởi ý tưởng chinh phục và chiếm
hữu, cái thói quen dụ người khác vào đạo đã ăn sâu trong đầu óc các ông cũng là
một hình thức chinh phục và chiếm hữu... Rao giảng về giáo thuyết của các ông
chẳng phải là một sự hi sinh, mà là đắm mình trong một sự xa xỉ nguy hiểm hơn
mọi xa xỉ vật chất rất nhiều. Nó nuôi dưỡng trong tâm các ông một ảo tưởng là
các ông đang làm bổn phận - rằng các ông khôn ngoan hơn và giỏi hơn đồng loại
của các ông.."
...Ngay cả khi
chính quyền Việt Nam cho ra những đạo dụ chống sự truyền đạo Gia Tô, họ vẫn cho
phép những Thánh nhân Phật giáo từ Trung Hoa vào truyền đạo ở Việt Nam. Điều
này chứng tỏ giới quan lại không chống đối bản thân sự truyền đạo.
Sự phỉ báng tất
cả những gì của Á Châu được thấy rõ, ngay từ lúc đầu, trong thái độ của những
thừa sai Pháp đối với những tôn giáo ở Việt Nam, như chúng ta đã thấy trong
những thư từ liên lạc và tác phẩm của họ.
...Trước khi
những người Ki Tô Giáo tới, Việt Nam có ba tôn giáo lớn: Phật Giáo, Lão Giáo,
và Khổng Giáo. Ba tôn giáo của Việt Nam này sống chung hòa bình với nhau hầu
như trong suốt giòng lịch sử. Theo một mức độ nào đó, các tôn giáo này hòa hợp
làm một, một nơi thờ tự tôn giáo có thể được dựng lên để thờ cả ba vị giáo chủ
của ba đạo sống khác nhau. Về vấn đề tôn giáo, Việt Nam là một xã hội đa tôn
giáo, điều này có thể giải thích sự kiện các thừa sai Tây phương thành công ở
Việt Nam hơn là ở những nơi khác tại Đông Nam Á.
...Bất kể là
những sự khác biệt giữa các tôn giáo ở Việt Nam như thế nào, chúng thật không
đáng kể so với cái vực thẳm ngăn cách những tôn giáo này với giáo hội hiếu
chiến Gia Tô.. Các Vua Việt Nam coi chủ thuyết Gia Tô như là một sự đe dọa đến
quyền hành của họ, và coi những người Việt Nam theo đạo như thuộc hạng chót
trong một hệ thống quyền lực tôn giáo chặt chẽ dưới quyền những giám mục ngoại
quốc. (Bị
ngoại nhân hoàn toàn thống trị đến độ giáo hội Gia Tô Việt Nam không có một
giám mục Việt Nam nào được bổ nhiệm cho tới thập niên 1930, 400 năm sau khi
những giáo sĩ thừa sai Gia Tô đầu tiên tới Việt Nam) Ở trên những giám mục ngoại quốc là một giáo hoàng
ngoại quốc ở tận La Mã xa xôi, và những tín đồ Việt Nam này trung thành và tuân
lệnh giáo hoàng thay vì hoàng đế Việt Nam.
Những thừa sai
thì hoàn toàn xa lạ với Việt Nam và với ý tưởng hòa hợp giữa các lý tưởng tôn
giáo khác nhau. Đối với dân ngoan đạo Gia Tô thời đó thì chỉ có hai quan điểm
đối ngược, hoặc đúng hoặc sai, không thể có một sự thỏa hiệp hay đối thoại nào
giữa hai quan điểm trên. Các thừa sai coi thường tín ngưỡng và cách hành đạo
địa phương, cho chúng là sai lầm...
Nhiều bản báo
cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào Việt Nam một số lượng lớn Âu
dược chữa bệnh cho dân chúng để "chiếm lòng họ." (Linh mục de
Courtaulin, trích trong tác phẩm của Taboulet, trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo, các
thừa sai Gia Tô đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt và nhẹ dạ
cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ki Tô Giáo như là một hệ thống ma thuật mới. Nước
thánh Gia Tô được dùng với hi vọng có thể đuổi được quỷ ám, cứu người chết sống
lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại v...v..
Tin vào sự
không thể sai lầm của Gia Tô Giáo, những hội viên trong Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại đã tấn công Phật Giáo, coi Phật Giáo như là vô thần và thờ hình tượng, và
chỉ trích nặng nề Khổng giáo về tục lệ thờ cúng tổ tiên.
...Đối với
những nhà lãnh đạo Việt Nam, toàn thể giáo thuyết Ki Tô bị coi là không thực.
Theo quan điểm của Nho gia thì bản chất con người là tốt; chỉ cần được huấn
luyện cho tốt để có thể sử dụng lý trí của mình mà phân biệt giữa tốt và xấu.
Con người không cần phải được "cứu rỗi" bởi sự can thiệp của Chúa Ki
Tô với Thượng-đế, và nếu cho rằng Chúa Ki Tô có khả năng như vậy thì đối với
giới Nho sĩ, đó cũng không khác gì một sự mê tín.
Giáo điều Ki
Tô, ngoài tính chất thô thiển và không hợp lý, còn bị coi như là thật sự nguy
hiểm, vì nó làm cho con người xa cách với gia đình để tìm sự giải thoát cho
riêng mình.
... Bằng sự đe
dọa hỏa ngục và sự đày đọa đời đời, các giáo sĩ thừa sai bắt buộc những đàn
chiên Việt Nam của họ phải theo đuổi ly rượu Thánh cho sự sống đời đời của mình
trong một thế giới sau thay vì làm những bổn phận hiếu thảo trong đời này.
Những nhà cấm quyền Việt Nam đặc biệt lo ngại về giáo điều xưng tội của Gia Tô
Giáo, coi đó như là một cách áp đặt quyền lực trên giáo dân. (Không những thế,
đây cũng là một cách lấy tin tức tình báo quân sự rất hữu hiệu. TCN).
...Như là một
sự thách đố đối với thiên tài của Khổng giáo trong việc hòa hợp các tín ngưỡng
khác nhau, Gia Tô Giáo đã chứng tỏ là một tôn giáo hoàn toàn không thể tiêu hóa
nổi. Trong bốn thế kỷ, Gia Tô Giáo vẫn còn như là một lực lượng chia rẽ trong
xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa những tín dồ Gia Tô
và đại khối dân tộc, những tín đồ Gia Tô thường sống trong những làng mạc riêng
biệt, dưới quyền thống trị của các linh mục, y như những làng mạc trong thời
Trung Cổ ở Âu Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc
riêng biệt này là những “ốc đảo ngu dốt”]
Về mặt văn hóa
cũng vậy, những người Việt Nam tân tòng Gia Tô trở thành cô lập với nền văn hóa
chủ đạo. Để phổ biến giáo lý Gia Tô, các thừa sai đã nghĩ ra một dạng chữ mới
theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc Ngữ, một cách phiên âm tiếng Việt họ dùng để dạy
những đàn chiên của họ. Họ dịch những sách cầu nguyện hay kinh sách Gia Tô khác
ra loại chữ mới này, nhưng không dịch văn chương Việt Nam. Điều này có nghĩa là
những tín đồ Gia Tô Việt Nam, vì không còn học ở các trường làng do các thầy
Nho dạy, không thể đọc được tiếng Việt, gọi là chữ Nôm, hay chữ Hán được dùng
trong mọi văn kiện công cộng. Chữ Quốc Ngữ là một trong vài đóng góp có ảnh
hưởng lâu dài vào nền văn minh Việt Nam của Tây phương, nhưng ảnh hưởng tức
thời của nó là chia rẽ quốc gia và đánh thẳng vào gốc rễ văn hóa của Việt Nam.
Đối
với một quốc gia mà lý tưởng là sự hòa đồng trong cộng đồng và lối sống theo
những qui định giao thiệp giữa con người với nhau, sự xâm nhập của Gia Tô Giáo
biểu thị cho sự xáo trộn và bất hòa trong xã hội.
Ngay từ ngày
đầu, những người xây dựng Gia Tô Giáo ở Việt Nam đã cố ý coi thường chính quyền
Việt Nam và đã dùng đến phương cách hối lộ và gian lận để đạt được những mục
đích của họ."
(Franco-Vietnamese
relations from the 17th century on followed the classic pattern of Western
penetration of Asia. First came the missionaries and traders. In time,
diplomats arrived to intercede on behalf of both and, in the end, soldiers
marched in to impose foreign rule - for the subject people's own good, of
course.
A
country's chief motive in acquiring colonies and spheres of influence would
seem to be acquisition - to get something, be it power, prestige, wealth, or
plunder...In the French case the chief emphasis was on religion. As the
torchbearers of Catholicism, the French were engaged in a religious crusade to
give the people of Vietnam that most priceless of gifts, the opportunity to
achieve immortality. Only when France became more secular in the 19th century
did it place emphasis on its "civilizing mission" - in countries
justly proud of their ancient civilization.
...However
unwelcome the traders were, Western missionaries were even more suspect. After
1645, when Alexandre de Rhodes was first imprisoned and then expelled,
missionaries had to disguise themselves as traders, according to English
merchants who came to Vietnam to open up trade channels.
...A
modern Eastern philosopher, in attempting to explain Asia's antagonism toward
Christian evangelists, stressed the arrogance of the typical Christian
missionary:
"You
Western mind is too much obsessed with the idea of conquest and possession, you
inveterate habit of proselytism is another form of it.. Preaching your doctrine
is no sacrifice at all - it is indulging in a luxury far more dangerous than
all luxuries of material living. It breeds an illusion in your mind that you
are doing your duty - that you are wiser and better than your
fellow-beings..."
...Yet
even while these Vietnamese authorities were passing edicts against Catholic
proselytizing, they allowed Buddhist holy men to enter Vietnam from China and
seek converts among the Vietnamese. This would suggest that the mandarins did
not oppose evangelism per se.
A
denigration of everything Asian is implicit in the attitudes of early French missionaries
toward the religions they found in Vietnam, as can be seen in their
correspondence and writings.
...There
were three world-famous religions in Vietnam prior to the arrival of the
Christians: Buddhism, Taism, and Confucianism...Vietnam's three religions
coexisted, leaving peacefully side by side most of the time. The a certain
extent they were even fused into one, with the same religious temple built to
honor collectively the founders of all three ways of life under one roof...
Vietnam
was, in religious terms, a pluralistic society, which may help account for the
greater success of Christian missionaries in Vietnam than in other parts of
Southeast Asia.
...Whatever
the difference between Vietnam's various religions, they were minor compared
with the gulf separating them from the militant Catholic Church.. Vietnamese
emperors regarded Catholicism as a threat to their authority and the local
Vietnamese converts as the bottom rung of a tight religious hierarchy under
foreign bishops. (So completely dominated by foreigners was the Vietnamese
Catholic Church that there were no Vietnamese bishops appointed until the
1930s, almost 400 years after the first Catholic missionaries arrived in
Vietnam.) Above the foreign bishops was the foreign pope in far-off Rome, and
they owned their loyalty and obedience to him rather than to the Vietnamese
emperor.
The
missionaries were totally alien to Vietnam and to the very idea of mutual
accomodation between different religious viewpoints. To the Catholic faithful
of this period there was truth and error, with no possibility of compromise or
"dialogue" between the two. Missionaries looked down on local beliefs
and practices, calling them false.
...Early
reports describe how a large quantity of Western medicines was brought to
Vietnam so that the missionaries could administer them "in order to win
the hearts of these peoples" (Father de Courtaulin, quoted in Taboulet,
p.42). But in their proselytizing activities many Catholic missionaries
exploited the fears and hopes of the ignorant and the credulous. Christianity
was regarded by those who adopted it as a new system of magic. Catholic holy
water was used, hopefully, to exorcise devils, raise the dead, and restore
sight to the blind...
True
to their belief in Catholic infallibility, members of the Society of Foreign
Mission attacked Buddhism as both atheistic and idolatrous and excoriated
Confucianism because of its rites of ancestor worship.
...To
Vietnam's rulers, the entire Christian doctrine was suspect. In the Confucian
view, man is essentially good; all he needs is good training and the use of his
reasoning powers to ascertain the difference between good and evil. He does not
have to be "saved" by Christ's intercession with God, and the
supposition that he did, struck the educated Confucian as just so much
superstitious.
Besides
being considered crude and implausible, Christian dogma was viewed as
positively dangerous, since it alineated a person from his family by
emphasizing individual salvation.
The
missionaries enjoined their Vietnamese flocks, under the threat of hell fire
and damnation, to pursue the Holy Grail of personal immortality in the next
world instead of fulfilling the duties of filial piety in this one. The
Vietnamese authorities were particularly alarmed over the Catholic confessional
as a means of exercising power over people.
...As
if challenging the Confucian genius for merging and tempering alien creeds,
Catholic proved to be completely indigestible. For four centuries the Catholic
faith has remained a divisive force in the society. Reinforcing the ideological
gulf between Vietnamese Catholics and the rest of the population, Christian
converts have tended to live apart in separate villages dominated by their
priests, much as the villages of medieval Europe were dominated five hundred
years ago.
In
a cultural sense, too, Vietnamese converts to Catholicism became isolated from
the mainstream. In order to dissiminate Christian teachings in Vietnam, the
missionaries worked out a new form of Romanized script called Quoc Ngu, a
phonetic rendering of Vietnamese which they taught their flocks. They
translated prayer books and religious tracts into this new script, but no
Vietnamese literature. This meant that Vietnamese Catholics, who no longer
attended village schools run by Confucian scholars, could read neither the
Vietnamese script, called "Nom", nor the Chinese characters used for
all public documents. The Romanized script was one of the few lasting Western
contributions to Vietnamese civilization, but its immediate effect was to
divide the nation and strike at the roots of Vietnamese culture.
For
a nation whose ideal was a harmonious community living according to well -
defined human relationships, this Catholic intrusion represented disorder and
dissension..
From
the start the Church fathers in Vietnam had been willing to defy Vietnamese
authority and resorted to bribery and fraud to gain their ends.)
Trên
đây chỉ là một cái nhìn đại cương về một vài khía cạnh của vấn đề Gia Tô La Mã
Giáo xâm nhập vào Việt Nam. Muốn biết rõ thực chất của sự xâm nhập này, chúng
ta cần đi thêm vào một số chi tiết để tìm ra nguyên nhân của việc cấm đạo ở
Việt Nam.
Các
nhà khảo sử không ai phủ nhận việc cấm đạo và chính sách khắc nghiệt của các
triều Nguyễn đối với Gia Tô Giáo, nhưng tất cả đều đồng ý ở một điểm: Việt Nam
là một dân tộc hiền hòa, hiếu khách, dễ dãi, và có tinh thần khoan dung tôn
giáo rất cao, do đó không có truyền thống cấm đạo hay bách hại giáo dân vì lý
do tôn giáo. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong tài liệu của Helen Lamb vừa
trích dẫn ỏ trên, và trong vài tài liệu sau đây.
Trong
cuốn “L'Empire Vietnamien Face à la
France et à la Chine", bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu
Tsuboi viết như sau:
"...lập
luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam, nơi mà tinh thần hòa đồng
tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, không có lý do gì, nhất là khi vẫn có trật tự
xã hội, lại đi bách hại đạo công giáo với tính cách là một đạo giáo."
Trong
cuốn French Catholic Missionaries and
the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914. A Documentary Survey, Patrick J. N. Tuck
nhận xét như sau, trg. 28:
"Động cơ
của sự bách hại đạo Ki Tô ở Việt Nam chưa bao giờ vì những vấn đề siêu hình (tôn giáo). Truyền thống tôn giáo Việt Nam thường mang đặc tính
chiết trung (không
bị thu hẹp vào một nguồn tư tưởng nào; TCN) và chấp nhận rộng rãi các tín ngưỡng khác.
Xét về toàn bộ,
truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha trộn, để cho
con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý."
(...The
persecution of Christianity in Vietnam was never motivated by purely
metaphysical issues. Vietnamese religious tradition was usually eclectic and
broadly tolerant of other beliefs.
Overall,
Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the
pursuit of many paths to the Truth.)
Vậy
tại sao lại xẩy ra chuyện cấm đạo và bách hại giáo dân? Tất nhiên những biện
pháp khắc nghiệt, trái với truyền thống khoan nhượng tôn giáo của Việt Nam,
phải có nguyên nhân. Những nguyên nhân này không bao giờ được các nhà viết sử
thực dân hay tay sai Gia-Tô bản địa nhắc tới. Những nguyên nhân này là gì, hiện
nay tài liệu có khá đầy đủ, tôi có thể tóm tắt những nguyên nhân đó trong ba
điều sau đây:
i).
Các giáo sĩ thừa sai Gia Tô Giáo khi tới Việt Nam truyền đạo đã không giữ đúng
vai trò truyền giáo thuần túy của mình. Họ có những thái độ ngạo mạn, khinh rẻ
chính quyền địa phương vì tự cho là văn minh tiến bộ trong khi bản chất của họ,
ít ra là về phương diện tâm linh, luân lý, và đạo đức, thật là hẹp hòi và chậm
tiến. Với tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt và huênh hoang, cộng với sự
kiêu căng lố bịch, cho rằng đạo của mình là đạo "thiên khải" chân
thật duy nhất, họ đã dùng những phương pháp truyền đạo gian xảo, xuyên tạc sự
thật để mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức, và cấu trúc văn hóa
truyền thống của xã hội Việt Nam. Họ đã trắng trợn can thiệp vào chính trị nội
bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự
chia rẽ, bất hòa, xáo trộn trong xã hội Việt Nam.
ii).
Các giáo sĩ thừa sai Gia Tô đã giữ những vai trò then chốt trong việc thực hiện
âm mưu phá hủy nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, vận động chính quyền Pháp xâm
lược Việt Nam, tích cực đóng góp cho việc xâm lược Việt Nam, và đào tạo một đạo
quân thứ 5 bản địa, biến những kẻ tân tòng đần độn trong tầng lớp cặn bã của xã
hội Việt Nam thành một đám nô lệ cho Vatican, coi thường luật lệ quốc gia và
không ngần ngại phản bội quê hương.
iii).
Một số không nhỏ giáo dân Việt Nam đã hợp tác, tiếp tay với thực dân Pháp, đem
nước ta vào vòng nô lệ Pháp để được hưởng những quyền lợi đặc biệt tôn giáo của
một thiểu số cam phận làm thân trâu ngựa, phục tùng tuyệt đối các giáo sĩ ngoại
quốc, bất kể đến sự đau thương của cả một dân tộc bị nô lệ ngoại bang.
Đó
là những gì mà các thừa sai Gia Tô La Mã Giáo đã mang đến cho dân tộc Việt Nam
với kết quả là, sau khi chế độ thực dân cáo chung, là để lại cho dân tộc Việt
Nam một di sản nghi kỵ nhức nhối giữa đại khối dân tộc và khoảng 7% dân số theo
Gia Tô Giáo, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, từ Công trường Phê-rô đến
Bolsa ở Little Saigon, một di sản không biết tới bao giờ mới xóa sạch được, như
linh mục Kim Dịnh đã nhận định.
Sau
đây là phần chứng minh 3 nhận định nêu trên qua các tài liệu.
Chúng
ta đã biết sách lược truyền đạo thiếu văn hóa của giáo sĩ Alexandre de Rhodes,
chúng ta đã biết việc dính vào chính trị nội bộ của Việt Nam cùng việc tuyển
mộ, chỉ huy một đoàn quân lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Đa
Lộc, và chúng ta cũng đã biết những hoạt động gián điệp của các Giám mục
Gauthier, Retord, Huc, Pellerin, Puginier v..v.. Những tài liệu sau đây sẽ cho
chúng ta thấy rõ thực chất những hoạt động "truyền giáo" của các thừa
sai Gia Tô ngoại quốc, tâm cảnh và hoạt động tiếp tay cho giặc của những giáo
dân Việt Nam, và từ đó chúng ta có thể suy ra những nguyên nhân cấm đạo hay
bách hại giáo dân.
1.
Trong cuốn “L'Empire Vietnamien Face à
la France et à la Chine", bản dịch ra tiếng Việt, Nước Đại Nam Đối
Diện Với Pháp và Trung Hoa, của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu Tsuboi viết như sau:
"Linh mục
Louvet gợi lại việc phái bộ Montigny đã tới Đà Nẵng năm 1847 để diệu võ dương
oai rồi thảm bại rút lui để lại bao khó khăn cho thừa sai và tín hữu. Theo
Louvet, phái bộ Montigny đã gây chuyển hướng trong tính cách của sự bách hại
như sau: "...từ phạm vi tôn giáo chuyển sang phạm vi chính trị, người công
giáo không chỉ nguyên thuần là một kẻ theo tà đạo, tự mình tách rời ra khỏi đời
sống công dân và gia đình do chối từ việc thờ cúng tổ tiên, mà còn là bạn bè
của người ngoại quốc, là kẻ phản bội và phản nghịch từng kêu gọi quân xâm lăng
đến chiếm lĩnh nước mình." Sự thật Louvet chỉ nhắc lại một lập luận mà giám
mục Pellerin đã quảng diễn từ trước...
Một lập luận
như vậy đánh dấu thật rõ ràng sự thay đổi trong não trạng các thành viên hội
Thừa Sai của Paris, vì lập luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam,
nơi mà tinh thần hòa đồng tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, không có lý do gì,
nhất là khi vẫn có trật tự xã hội, lại đi bách hại đạo công giáo với tính cách
là một đạo giáo. Đã từ lâu, điều làm cho người ta e ngại là sự hiện diện và
hoạt động của các thừa sai bị coi như là những điệp viên của Tây phương có
nhiệm vụ phá hại nền đạo đức và chính trị của nước Việt Nam. Chúng tôi đã xem
xét kỹ hoạt động của các thừa sai, bởi vì chúng tôi tin là hội thừa sai Paris
và các giáo sĩ của hội này đã là những kẻ "dẫn đường" chính cho chính
quyền Pháp tại Việt Nam"
2.
Trong cuốn Những Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại và Sự Xâm Nhập của Pháp Vào Việt Nam (Les Missions Étrangères et la
Pénétration Francaise au Viet-Nam), Nicole-Dominique Lê viết:
"Theo quan
điểm của những nhà lãnh đạo Việt Nam thì các thừa sai đã phạm tội thúc đẩy giáo
dân bất tuân luật lệ quốc gia. Từ bỏ những thờ phượng tôn giáo, những giá trị
xã hội đã khiến cho họ sống ở ngoài lề của xã hội truyền thống. Nhưng nghiêm
trọng hơn là, người ta trách cứ các giáo sĩ và giáo dân đã tạo nên sự phân chia
quốc gia thành 2 khối tôn giáo đối nghịch nhau."
(Les
missionaires, selon l'optique des dirrigeants Vietnamiens, étaient coupables de
pousser les Chrétiens à rejeter les lois de leur pays. Rejet des cultes
religieux, des valeurs sociales qui les faisaient vivre en marge de la société
traditionnelle. Mais chose plus grave, on reprochait aux prêtres et aux
chrétiens la scission du pays en deux clans religieux opposés.)
"Được
thành lập một cách cuồng tín, những người Ki Tô Giáo Việt Nam đã có một ý thức
giai cấp; họ tự cảm thấy tách biệt khỏi đại khối dân tộc, khác biệt và cao quý
hơn, vì họ đã nhận được "ánh sáng của Thượng Đế." Họ khinh miệt những
người phi-Ki Tô, những người đã theo những nghi lễ "mọi rợ và mê
tín". Nhưng những người phi-Ki Tô cũng khinh miệt không kém những kẻ theo
đạo, thường là xuất thân từ giai cấp hạ tiện, những người chẳng mất mát gì khi
theo một tôn giáo khác, một tôn giáo từ chối gia tài của xứ sở. Nhất là giai
cấp văn thân càng ghét họ hơn, vì, không những họ từ bỏ những truyền thống tổ
tiên, mà tệ hơn nữa, kêu gọi ngoại nhân đến với họ, xin ngoại nhân che trở và
cho họ việc làm, hầu hạ và phục tùng ngoại nhân như là các ông chủ duy nhất. Về
phía Gia-Tô giáo, họ không làm gì để xóa bỏ hay ít ra là làm giảm bớt cái tiếng
xấu của họ, trái lại, khi chắc rằng người Pháp sẽ ngự trị ở ngoài Bắc, và tin
rằng thời cơ của họ đã tới, họ đã phạm nhiều sự lạm dụng không thể tha thứ
được."
(Formés
fanatiquement, les chrétiens Vietnamiens ont acquis une conscience de classes;
ils se sentaient à part du reste de la nation, différents et supérieurs, car
ils avaient recu la lumière du Dieu. Ils méprisaient les non-chrétiens, qui
pratiquaient des rites barbares et superstitieux. Mais les non-catholiques ne
méprisaient pas moins les convertis qui, le plus souvent de basse extraction,
n'avaient rien à perdre en suivant une autre religion qui niait à elle seule
l'héritage du pays. La classe lettrée surtout les détestait car, non seulement
ils reniaient leurs traditions ancestrales, mais pire encore, ils appelaient à eux
les étrangers, leur demandant protection et emploi, les servant et leur
obéissant comme à des maitres incontestés. Du côté catholique, rien ne fut
entrepris pour effacer ou tout au moins atténuer la mauvaise réputation qui
leur était faite. Bien au contraire, lorsqu'ils furent certains que la France
allait désormais s'installer au Nord, ils commirent d'impardonable abus,
croyant leur heure est arrivée.)
3.
Trong cuốn Trung Kỳ - Bắc Kỳ 1885-1896 (Annam-Tonkin
1885-1896), Charles Fourniaux viết:
"Căn bản
của lực lượng này (với mục đích đồng hóa toàn phần dân chúng để tạo một
"Đông Dương của Pháp", bằng cách phá hoại văn minh cổ truyền và những
văn thân gìn giữ nền văn minh này) nằm trong 600,000 giáo dân Thiên Chúa Giáo
mà các thừa sai là những ông chủ tuyệt đối. Họ sống trong các làng mạc hoặc
phần làng mạc riêng biệt, vì các thừa sai nhất định bảo vệ họ để khỏi bị ảnh
hưởng xấu của người "Lương" và người Âu châu. Nhưng nhất là vì niềm
tin và tác phong của họ đã làm cho đồng bào của họ coi họ như là những kẻ bội
giáo và phản bội quốc gia. Họ không còn trung thành với sự thờ cúng tổ tiên,
không tôn trọng những lễ lạc cổ truyền và phong tục tập quán. Thật vậy, có phải
là từ những năm 70 họ đã chẳng là những "nội ứng của Pháp", làm tình
báo cho kẻ thù và giúp đỡ kẻ thù, và cung cấp đa số trợ quân cùng những kẻ phản
bội quốc gia khát máu như tên Trần Bá Lộc?"
(La
base de cette force (visant à l'assimilation complète de la population pour
construire une "France Indochinoise", en détruisant la civilisation
traditionnelle et ses gardiens que sont les Lettrés) réside dans les 600,000
chrétiens sur lesquels règnent en maitres absolus les missionnaires. Ils vivent
en villages ou quartiers de villages séparées, car les missionnaires tiennent à
les protéger des influences néfastes des "paiens" et des européens.
Mais surtout leur foi et leur comportement les fait apparaitre à leurs
compatriotes comme des rénégats et des traitres. Ils sont infidèles aux
pratiques du culte des ancêtres, ne respectent ni les fêtes traditionnelles ni
les coutumes. Enfin n'ont-ils pas été depuis le début des années 70 les
"Francais de l'intérieur", renseignent et aident l'ennemi, fournissant
le gros des recrues de forces supplétives et des traitres sanglants comme Trần
Bá Lộc?)
(Trần
Bá Lộc là tên tay sai Gia-Tô đắc lực nhất của Pháp trong sự đàn áp các cuộc
khởi nghĩa ở miền Nam, nổi tiếng là tàn bạo và tham lam. Leo từ lính cơ của
Pháp lên tới tri phủ (1886) hắn đã "chặt nhiều đầu" kháng chiến quân,
chính hắn viết như thế, và còn bắt bớ những người có liên hệ với kháng chiến để
tống tiền dưới hình thức "bồi thường", được Pháp khen thưởng Bắc Đẩu
Bội Tinh hạng 3: theo tài liệu A30 (75), hộp 19, Thư Khố Bộ Pháp Quốc Hải
Ngoại.)
4.
Trong cuốn Việt Nam Chiến Sử, tác giả Phạm Văn Sơn
viết:
"Dưới mắt
Vua Minh Mạng các tu sĩ Tây phương ngoài việc truyền giáo còn là những gián
điệp lợi hại nhất của đế quốc và các tàu buôn cùng sứ thần của họ cũng có những
công tác bí mật, vậy "kính nhi viễn chi" là hơn."
5.
Trong cuốn The Vietnam Response to
French Intervention, 1862-1874 của Mark W. McLeod, chúng ta có thể đọc được
những đoạn sau đây:
"Nguyên
tắc của Vua Minh Mạng để đối phó với những người Gia Tô Việt Nam như sau: trước
hãy giáo dục sau mới dùng đến hình phạt. Như vậy, các viên chức trước hết phải
khuyên hóa những người Gia Tô để cho họ tỉnh ngộ và hối cải những tội ác của
họ.."
(Minh
Menh's principle for dealing with the Vietnamese Catholics was the following:
"first we must educate; only afterward do we punish". Accordingly,
officials were first to "advise and instruct" the Catholics so that
they would "awaken" and repent their crimes.)
"Sau
đó, những đạo dụ khắc nghiệt hơn được ban hành mỗi khi Vua Tự Đức phải đối diện
với bằng chứng là các giáo sĩ Gia Tô và các giáo dân dính líu vào những cuộc
nội loạn hay đứng về phía một quyền lực ngoại quốc."
(Subsequent,
more severe edicts were issued whenever Tu Duc was confronted with evidence
that the Catholic missionaries or the indigeneous Catholics were involved in
internal rebellions or were in league with a foreign power.)
6.
Trong cuốn La Place du Catholicisme
dans les Relations Entre la France et le Vietnam, de 1851 à 1870, nhà trí thức Gia Tô
Étienne Võ Đức Hạnh viết:
"Dưới
triều Vua Tự Đức, một số lớn tín đồ Gia Tô Việt Nam làm tình báo cho
Pháp...Dưới triều Tự Đức, do sự xúi dục của các giáo sĩ, người Ki Tô Giáo và
phi-Ki Tô, âm thầm hoặc công khai, chống đối lại vị Vua tại vị hơn là nhà
Nguyễn vì nhiều lý do...Chỉ có một điều khác biệt: người Ki Tô Giáo có cùng
chung mục tiêu với nước Pháp, còn người phi- Ki Tô thì không."
(Sous
Tu Duc, un grand nombre de catholiques Vietnamiens sont d'intelligence avec les
Francais... Au jours de Tu Duc, Chrétiens et non-chrétiens, à l'instigation des
missionnaires, résistent ici sourdement, là ouvertement au roi régnant mieux à
la dynastie des Nguyen pour plusieurs motifs.. Une seule différence: les
chrétiens font cause commune avec la France, les non-chrétiens les combattent)
7.
Trong cuốn French Catholic
Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914, Patrick J. N. Tuck
viết, trg. 28:
"Xét về
toàn bộ, truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha
trộn, để cho con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý.
Đối ngược với
điều trên, những điều tự nhận của Ki Tô Giáo về một tâm linh duy nhất thật là
phi lý và kỳ cục đối với người Việt Nam. Ngoài ra, chiến thuật dụ người vào đạo
của các thừa sai có tính cách xâm nhập độc chiếm. Ảnh hưởng xã hội và chính trị
của sự truyền đạo này có tính cách phá hại cao độ. Chính điều này đã gây nên
thái độ thù nghịch trong giới sĩ phu cũng như trong đại chúng"
(Overall,
Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the
pursuit of many paths to the Truth. In contrast with this, the exclusive
spiritual claims of Christianity seemed irrational and eccentric to the
Vietnamese. However, missionaries strategies of conversion were exceptionally
intrusive. The social and political effects of their proselytism could be
highly disruptive. It was this which aroused popular as well as elite
hostility)
"Theo quan
điểm của người Việt Nam, những sự tàn sát tín đồ Ki Tô Giáo không chỉ là một
biểu thị của sự hoang mang chính trị. Nó có một mục đích thực tế là đánh thẳng
vào một chiều kích đáng kể trong nỗ lực quân sự của Pháp. Về phần Pháp, sau
những do dự ban đầu (Tài liệu 106), đã tận dụng những tín đồ Ki Tô Việt Nam như
là các trợ quân trong cuộc chiến. Những tín đồ Ki Tô Việt Nam được sử dụng làm
cu-li, thông ngôn và lính chiến đấu; và giáo dân Việt Nam đã góp tiền tổ chức
những lực lượng riêng thí dụ như "đoàn quân Joseph" khoảng 7000
người.. Thật vậy, như Giám mục Puginier đã vạch rõ, Giáo dân rất hữu dụng trong
việc lấy tin tức tình báo quân sự về những sửa soạn của kháng chiến quân Việt
Nam và về sự chuyển quân của quân Trung Hoa (Tài liệu 116). Một đạo luật chống
Ki Tô mà Thuyết (Tôn Thất) ban ra năm 1885 xác nhận là chính cái nhiệm vụ lấy
tin tức tình báo này của những cộng đồng Ki Tô mới thật là đáng sợ (Tài liệu
113)."
(...From
a Vietnamese point of view, the massacres of Christians were not merely an
expression of political frustration. It served a practical purpose in striking
at a significant dimension of French military effort. For the French, after
initial hesitations (Doc. 106), were making considerable use of Vietnamese
Christians as axiliaries in the war. Christian Vietnamese were employed as
coolies, interpreters and miliciens; and Vietnamese Christians also financed
and organized privates forces such as the "armée Joseph", a body of
about 7000 irregulars.. Above all, as Bishop Puginier pointed out, Christians
were useful in gathering field intelligence on Vietnamese resistance
preparations and on Chinese force deployments (Doc. 116). A later
anti-Christian decree of Thuyet, issued in 1885, confirms that it was the
intelligence gathering function of the Christian communes that was particularly
feared (Doc. 113).
Những
tín đồ Gia Tô Việt Nam hợp tác và làm tay sai cho quân xâm lăng Pháp, ngay từ
ngày đầu cho tới ngày cuối, nay đã là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ
nhận. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn viết về giai đoạn lịch sử Việt Nam
trên của Mark L. McLeod, Ibid., trg. 45-47:
"Vai trò
của những tín đồ Gia Tô trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha là
gì?..Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ
tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Gia Tô Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn
quân chiến đấu của Tây phương. Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân
Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn
luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà. Một trong hai chi đội trên chiến đấu
sát cánh với quân Pháp - Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống
miền Nam, dự phần chiếa đấu trong cuộc xâm lược "lục tỉnh" và họ đã
dự trận Kỳ Hòa. Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Gia Tô Việt Nam đã phục
vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính
chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo, trong những vùng chiếm được ở miền Nam.
Vì những dịch vụ này, họ được Đô Dốc - Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng
cho một số đất quanh vùng Sài-gòn.
Trong cuộc xâm
lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ 1858 đến 1862, những biện pháp cấm đạo
của Vua Tự Đức càng ngày càng khắc nghiệt và dễ hiểu. Đó chính là vì Triều đình
Huế tin rằng những tín đồ Gia Tô Việt Nam đã hỗ trợ những đoàn quân xâm lăng.
Những đạo Dụ trong thời chiến này thường nhằm mục đích ngăn cản những tín đồ
Gia Tô Việt Nam liên lạc với những lực lượng Pháp - Tây Ban Nha. Thí dụ, một
đạo Dụ ban hành vào tháng 5, 1859, nêu rõ rằng, khi nghe tin thành Saigon thất
thủ, những tín đồ Gia Tô Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố
người "lương" hay "tốt" (nghĩa là, người phi- Gia Tô) và đi
làm "tay sai và mật thám cho Tây Dương "
.. Theo quan
niệm của Vua Tự Đức thì sự khắc nghiệt của những đạo Dụ cấm đạo trong thời
chiến rất là chính đáng, vì những tín đồ Gia Tô Việt Nam "đã mang người
Tây Dương vào trong xứ sở."
...Với
những tài liệu hiện hữu, chúng ta chỉ có thể kết luận là triều đình nhà Vua tin
rằng những tín đồ Gia Tô đã giúp đỡ quân đội Pháp và Tây Ban Nha, và triều đình
không hẳn là hoàn toàn sai lầm trong nhận thức này. Do đó, những đạo Dụ chống
Gia Tô quá khắc nghiệt của Vua Tự Đức trong thời chiến chỉ nhằm mục đích ngăn
ngừa tín đồ Gia Tô bản xứ khỏi phối hợp cới những lực lượng xâm lược."
(What
was the role of the Vietnamese Catholics during the Franco-Spanish invasion?...
In fact, French archival sources show clearly that, as early as September 1858,
groups of Catholics began to reach the embattled European armies. Rigauld de
Genouilly formed the men into two indigenous detachments and trained them at a
camp at Tien Cha. One of these detachments fought alongside the Franco-Spanish
soldiers at Da-nang; the other went southward to participate in the invasion of
the "luc tinh" and fought in the battle of Ky Hoa. After the battle
of Ky Hoa, the indigenous Catholics militamen who entered the service of the
Europeans at Da nang continued to serve the French in the occupied south as
soldiers, interpreters, coolies, and guides. They were rewarded for their
services by Admiral-Governor de la Grandière, who granted them concessions of
land in the Saigon area.
During
the Franco-Spanish invasion of 1858-1862, the Tu Duc Emperor's interdictions of
Catholicism grew increasingly severe and comprehensive. This was primarily
because the Hue court believed that the Vietnamese Catholics supported the
invading armies. The wartime edicts were thus largely directed to the problem
of preventing the Vietnamese Catholics from communicating with the
Franco-Spanish forces. An edict of May 1859, for example, stated that, upon hearing
of the fall of the Saigon citadel, the Vietnamese Catholics of the south were
taking advantage of the situation in order to terrorize the "luong"
or "good" (that is, non-Catholics) people and to serve as
"lackeys and spies for the Westerners".
...
The severity of the wartime edicts was justified, in the emperor's opinion,
because the Catholics had "brought the Westerners into the country."
...With
the existing documentation it can only be concluded that the imperial court
believed that the Catholics were aiding the French and Spanish troops and that
the court was not entirely wrong in this perception. Accordingly, the Tu Duc
Emperor's wartime anti-Catholic edicts reached new extremes of severity
primarily in order to keep the indigenous Catholics from linking with the
invading forces.)
Đọc
lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành Hà Nội và các
tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta sẽ thấy sự thực về
vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Gia Tô Việt Nam cho những đoàn
quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào. Mark L. McLeod, Ibid., trg. 114-122:
"Bản chất
và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Gia Tô là như
thế nào?
Những
thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand. được Garnier phái đi chinh
phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta
thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Gia Tô bao gồm - nhưng không chỉ
giới hạn ở - những nhiệm vụ hành chánh và quân sự. Những nguồn tài liệu này
cũng cho chúng ta thấy một kiểu xoay sở lẫn nhau giữa các sĩ quan Pháp và các
thừa sai Gia Tô với kết quả là những kẻ "tình nguyện" thường cũng
được lợi bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.
... Để giúp
chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý
và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ
Truyền Giáo Gia Tô và các lực lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động
này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt
Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai
và những tín đồ Gia Tô Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp
và những cộng tác viên Gia Tô dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao
theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền
giáo Gia Tô đã dùng sức lao động (của tín đồ Gia Tô bản xứ; TCN), tài nguyên,
và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên
miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo,
thiêu hủy những làng mạc phi-Gia Tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua.
Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Gia Tô thường không
được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần
thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."
(What
was the nature and extent of the assistance that the Catholics brought to the
French expedition?
The
correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched by Garnier
to obtain the submission of many of the provincial citadels and strongpoints of
the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance that included -
but not limited to - formal administrative and military duty. These sources
further reveal a pattern of mutual manipulation by French officers and Catholic
missionaries in which the "volunteers" often had as much or more to
gain from the relationship as did the French officers.
...It
is useful to consider Balny's actions at Phu Ly and Hai-duong and Harmand's at
Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic Missions and the
French forces. The analysis reveals that the French were far from alone in
their attacks on the loci of Vietnamese authority because the invaders received
a significant level of support from the missionaries and the Vietnamese
Catholics. Moreover, the methods of the French officers and their Catholic
collaborators could hardly be considered as evidence of a superior morality
even by their own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor,
resources, and information in return for French assistance in perpetuating
summary executions, desecreations of Buddhist religious edifices, burning of
non-Catholic villages, and pillaging of imperial citadels. This Catholic
collaboration with French imperialism has not been adequately recognized by
historians, but it was a significant contributing factor to the French success
in Tonkin.)
Trong
cuốn sách của Mark L. McLeod và trong nhiều cuốn khác, có rất nhiều chi tiết về
sự cộng tác của những tín đồ Gia Tô Việt Nam với đầy đủ tài liệu. Tôi không
thể đưa hết vào trong cuốn sách này vì nó quá chi tiết và dài, cho nên chỉ có
thể đưa ra những nét đại cương. Tuy nhiên, chúng ta có thể nêu ra đây một thí
dụ điển hình: nguyên nhân thất thủ trung tâm kháng chiến Ba Đình, do Linh Mục
Trần Tam Tĩnh viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm:
"Cho tới
khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ
ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới.
Người ta còn giữ được mấy chục bản ghi chú và những tin tức tình báo có mang
chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ Thuộc Địa. Một phần nhờ vào các tin
tức tình báo của giám mục mà quân Pháp có thể dẹp tan quân đội kháng chiến của
Việt Nam.
Trung tâm kháng chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy
của Đinh Công Tráng. Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre,
những ụ kháng chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp
đặt một cách tinh vi. Để "bình định" làng này, quân đội Pháp đã kéo
tới 2,250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá
Metzinger. Cuộc tấn công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui. Quân Pháp
bao vây để tìm kiếm một chiến thuật mới. Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan
trẻ, đại úy Joffre (sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ
nhất Thế Chiến), đã nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát
Diệm và là Phó Tướng đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà
Tịnh. Trần Lục, được giám mục Puginier ban phước lành, và mang 5000 giáo dân
Gia Tô đến giúp quân Pháp. Và Ba Đình bị thất thủ."
Từ
những tài liệu dẫn chứng ở trên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa là, nếu
không có những hành động nội ứng, tiếp tay với một mức độ đáng kể của tín đồ
Gia Tô Việt Nam thì chưa chắc Pháp đã lập nổi nền đô hộ ở Việt Nam trong gần
100 năm. Điều này, chúng ta có thể thấy rõ ràng trong một văn kiện có tính cách
khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn
Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
"Giám Mục
Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì
người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy,
tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy,
không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn
là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin
tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị
đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm
họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được
nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện
diện của họ sẽ bị nguy hại."
(Sans
les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient
comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison,
pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les
missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis;
ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux
renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se
trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement
exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils
ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même
serait compromis.)
Trên
đây chỉ là vài tài liệu trong kho tàng tài liệu rất phong phú hiện hữu. Từ
những tài liệu trích dẫn trên chúng ta có thể thấy rõ nguyên nhân của việc cấm
đạo trong thế kỷ thứ 19 tại Việt Nam, tuyệt đối không phải vì lý do tôn giáo,
không phải vì những tín đồ Gia Tô Việt Nam theo một đạo mới, mà cũng chẳng phải
vì Vua, Chúa cùng các sĩ phu ganh ghét hay đố kỵ những thừa sai Gia Tô ngoại
quốc hay những kẻ tân tòng bản địa. Một số trí thức Gia Tô luôn luôn có luận
điệu cho rằng những người ngoại đạo ganh ghét hay đố kỵ Gia Tô La Mã Giáo. Thí
dụ, Linh mục Phan Phát Huồn, viết trong cuốn Việt Nam Giáo Sử với mục đích hạ thấp những bậc xuất gia trong Phật Giáo
như sau, trg. 220:
"Người
Công giáo lúc ấy lại được tự do hành đạo, nên nhiều người nghèo khó cũng như
giàu sang theo đạo công giáo. Phong trào theo đạo ấy đã làm cho các thày Sư
ghen tuông các linh mục, các thày xúi người lương ghét đạo."
Viết
như vậy Linh mục Phan Phát Huồn đã để lộ một tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của
đần độn và huênh hoang, phản ánh một kiến thức nghèo nàn về chính đạo của ông
và lẽ dĩ nhiên, một sự hiểu biết rất hạn hẹp về Phật Giáo.
Thật
vậy, nhận xét trên sẽ được chứng minh trong sự phân tích đại cương vấn đề để
xem Linh mục Huồn dùng từ "ghen tuông" có khớp không? Ghen tuông hay
đố kỵ có nghĩa là ghen ghét vì mình không bằng người ta, thèm muốn những cái
người ta có mà mình không có được. Vậy thì, người Phật tử, Tăng cũng như tục
nói riêng, Phật Giáo nói chung, đố kỵ người GiaTô hay GiaTô La Mã Giáo ở chỗ
nào? Muốn xét về một tôn giáo thì người ta thường xét đến tư cách của Giáo Chủ,
giáo lý, thành phần tín đồ, và những phúc lợi mà tôn giáo đó đã đem tới cho
nhân loại.
Về
tư cách của giáo chủ thì chúng ta hãy đọc lời sau đây của Bertrand Russell, một
thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950:
"Xét về
trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô cũng cao cả như vài
người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi
phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô."
(I
cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of
virtue Christ stands as high as some other people known to history - I think I
should put Buddha and Socrates above him in those respects.)
Nếu
tôi đọc những chuyện trong Thánh Kinh về cách Đức KiTô đối xử với cha mẹ, anh
chị em, về những lời nguyền rủa của Đức KiTô đối với những người không tin theo
ngài là sinh ra từ đồ rắn độc, dạy đệ tử mang họ ra giết ngay trước mặt ngài,
và ngay cả lời nguyền rủa một cây sung vô tri vô giác để cho nó chết héo queo
chỉ vì cây không ra trái lúc trái mùa để cho ngài sơi cho đỡ khát, và gọi một
người đàn bà không phải là dân Do Thái là chó khi bà này đến khẩn nài ngài chữa
bệnh cho con gái v...v..., thì tôi bắt buộc phải đặt Đức KiTô dưới hàng triệu
người khác về vấn đề đạo đức.
Vậy,
về vấn đề giáo chủ, có gì để Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô Giáo?
Về
phương diện giáo lý thì ai cũng biết giáo lý bắt nguồn từ kinh điển của mỗi tôn
giáo. Ki-Tô Giáo thì có cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Phật Giáo thì
có Thiên Kinh Vạn Quyển. Kinh điển Phật Giáo thì nhiều và rộng vô chừng nhưng
tất cả đều nhất quán, dẫn dắt con người bằng những con đường khác nhau nhưng
cùng đi tới mục đích tối hậu là giác ngộ qua sự tu tập bản thân bằng bi, trí,
dũng. Đặc biệt là trong kinh điển Phật Giáo ta không hề thấy những chuyện tàn
ác, giết chóc, dâm loạn v..v... Trái lại trong cuốn được gọi là Thánh Kinh thì
đầy rẫy những chuyện ác độc, vô luân, chiến tranh, chém giết, tàn sát tập thể
và những giáo lý mâu thuẫn cùng cực v..v.., như đã được trình bày trong Chương
V, ngoài những chuyện hoang đường “không thể tin được” của thời bán khai.
Vậy
về vấn đề giáo lý, có gì để Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô La Mã Giáo?
Về
phương diện hành trì giáo lý thì chúng ta đã biết lịch sử của GiaTô LaMã Giáo
đã mang tới bao nhiêu bất hạnh cho nhân loại qua 1000 năm của thời kỳ đen tối
(Dark Ages) ở Âu Châu với 9 cuộc Thánh Chiến, 400 năm của các tòa án xử dị
giáo, và mang tới cho các dân tộc ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Nam Mỹ, Á Châu
qua chính sách thực dân đế quốc, trong khi sự bành trướng của Phật Giáo trên
thế giới từ 25 thế kỷ trước, qua phương pháp truyền đạo hòa bình và chuyển hóa,
không hề làm đổ một giọt máu .
Vậy
về phương diện hành trì có gì Phật Giáo phải đố kỵ với GiaTô LaMã Giáo?
Về
phương diện tín đồ, theo nhận xét của Malachi Martin, nguyên giáo sư tại Viện
Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, trong cuốn The Keys of This Blood thì:
"Tự bao
giờ, Gia Tô Giáo chỉ nảy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học."
(Catholicism
has always flourished only in poor population of low educational quality)
Cùng
một ý tưởng, Adrian Pigott viết trong cuốn Freedom's Foe - The Vatican:
"Họ (giáo
dân) được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc
của ý thức hệ La Mã".. Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo
Gia Tô La Mã Giáo - nhờ đó mà tập đoàn linh mục có thể nảy nở"
(They
have been brought up in what Dr. Barnado called "The thick darkness of
Romanism".. Illiteracy is always prevalent in Romanist countries - to
enable Priestcraft to flourish.)
và
Toàn Quyền Đông Dương J. L. de Lanessan, cách đây hơn 100 năm, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi
Patrick J. N. Tuck, cũng đưa ra một nhận xét như sau:
"Thật ra,
trong hơn 2 thế kỷ mà các Hội Truyền Giáo Gia Tô hoạt động ở Trung Hoa và bán
đảo Đông Dương, có lẽ họ không cải đạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới cầm
quyền có học của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các
nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và
phần lớn là những kẻ, vì lý do này hay lý do khác, đã bị xã hội An-Nam ruồng
bỏ."
(In
fact during the two centuries and more that the Catholic Missions have been
operating in China and the Indochinese peninsula they have probably not
converted more than ten scholars in all. The entire educated and governing
class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic
missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those
who, for various reasons have been rejected by Annamese society.)
Vậy
về phương diện thành phần và khả năng hiểu biết của những tín đồ, Phật giáo có
gì mà phải ghen tuông với Gia Tô La Mã Giáo?
Phải
chăng những tín đồ Gia Tô chỉ nhắm mắt tin theo những lời tuyên truyền giả dối
hoàn toàn sai sự thực của Giáo hội, và Gia Tô La Mã Giáo quả nhiên đã chỉ nảy
nở nơi những người mà đầu óc không có bao nhiêu suy luận.
Chỉ
còn một điểm là quyền lực chính trị và tài sản của GiaTô La Mã giáo vượt xa
Phật Giáo. Nhưng đây chính lại là những sự phù du mà Phật Giáo không màng tới,
không coi đó là khuôn vàng thước ngọc để đo đạo đức và trí tuệ của con người.
Thời quân chủ, Vua có một địa vị tuyệt đối về quyền lực và của cải thế gian,
nhưng Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã coi ngai vàng như đôi giép rách, bỏ vào
chùa đi tu. Quốc Sư Vạn Hạnh tham gia chánh sự nhưng không tham gia chánh
quyền. Những chuyện như vậy đầy rẫy trong lịch sử Phật Giáo thế giới.
Vậy
có gì để Phật Giáo phải đố kỵ Gia Tô La Mã Giáo về phương diện này. Ở đây, tôi
không muốn nhắc đến chuyện GiaTô Giáo đã làm những gì đối với quốc gia dân tộc
so với Phật Giáo.
Cho
nên, viết rằng Phật Giáo ganh ghét, đố kỵ GiaTô La Mã Giáo là viết ngược chiều,
vì những người được đào tạo từ cái lò Gia Tô Giáo có biết gì khác đâu ngoài
những lời "giáo hội dạy rằng" mà thực chất chỉ là những lời tuyên
truyền sai sự thực để gò ép những đầu óc kế thừa loại đầu óc Phê-rô phải nhắm
mắt nhắm mũi mà tin, không cần biết, không cần hiểu. Những loại đầu óc như vậy
thì có gì để mà tự hào? Cho nên, tôi nghĩ rằng các Thày Sư coi thường và tội
nghiệp cho các linh mục thì đúng hơn là ghen tuông.
Không
coi thường sao được khi mà ngay trong nước Pháp, một nước trước đây được coi
như là trưởng nữ của Giáo hội Gia Tô La Mã, Léon Gambetta, một chính trị gia
lỗi lạc của Pháp, trong cuộc hô hào đoàn kết quốc gia, đã phải hét lên một lời
tuyên chiến: "Đặc quyền của giới
giáo sĩ, đó chính là kẻ thù" (Un cri de guerre: Le Cléricalisme, voilà
l'ennemi); và Émile Combes, một nghị sĩ đã phát biểu giữa nghị trường Pháp: "Không phải là chúng ta đả kích tôn giáo mà là những
linh mục, những người muốn lợi dụng tôn giáo làm một công cụ thống trị" (Ce n'est pas à la
religion que nous nous attaquons, c'est à ses ministres, qui veulent s'en faire
un instrument de domination); và Jean Bossu, khi tranh đấu cho nền dân chủ của
Pháp đã tuyên bố: "Chống đặc
quyền của giới giáo sĩ là nền tảng căn bản của tinh thần dân chủ. Đối với chúng
ta, đó chính là Giáo hội, chính là Gia Tô Giáo mà từ trước tới nay luôn luôn
đối nghịch với mọi thứ tự do." (L'anti-cléricalisme est la base fondamentale
de l'esprit démocratique. Pour nous, le cléricalisme, c'est l'église, c'est le
Catholicisme, qui a toujours été l'adversaire de toute liberté); và nhà đại văn
hào Victor Hugo đã nhận định: "Nền
văn minh , ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách bị chìm đắm; hai sự xâm
lăng làm phương hại đến nền văn minh này: sự xâm lăng của các quân lính và sự
xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của quân lính đe dọa mẹ chúng ta: Tổ
Quốc; sự xâm lăng của linh mục đe dọa con chúng ta: Tương Lai" (La civilisation,
cette lunière, peut être éteinte par deux modes de submersion; deux invasions
lui sont dangereuses, l'invasion des soldats et l'invasion des prêtres. L'une
menace notre mère: La Patrie; l'autre menace nos enfants: l'Avenir.)
Chắc
hẳn các thừa sai Gia Tô Pháp, trong việc đào tạo các linh mục Việt Nam, không
bao giờ nhắc đến những câu nói thời danh đã đi vào lịch sử này, cho nên các
linh mục bản xứ vẫn tin tưởng là cái hình ảnh linh mục của mình là cao quý, đẹp
đẽ lắm, ai cũng phải hoặc kính trọng, hoặc ghen tuông, trong khi sự thật lại
ngược hẳn. Victor Hugo viết rằng: "Chỉ
có hai tội phạm: César và Phê-rô (Peter).
César thì giết người (hủy
diệt thân xác), Phê-rô thì nói láo (hủy diệt tinh thần). Người Linh mục bị, hoặc có thể bị thuyết phục và
thành thật. Chúng ta có nên trách họ không? Không! Chúng ta có nên chống họ
không? Nên!"
(Il n'y a que deux coupables: César et Pierre. César qui tue, Pierre qui ment.
Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non!
Doit-on le combattre? Oui!)
Trong
cuốn sách này tôi sẽ không bàn tới vấn đề Gia Tô Giáo đã mang lại những bất
hạnh như thế nào cho dân tộc sau khi Pháp đặt nền đô hộ ở Việt Nam, trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, và trong hai nền Việt Nam Cộng Hòa
ở miền Nam Việt Nam. Quý độc giả quan tâm đến những chi tiềt liên hệ tới những
giai đoạn lịch sử trên có thể tìm đọc những tác phẩm như Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa
Giáo Trong Thời Kỳ Kháng Chiến: 1945-1954 của Quang Toàn và Nguyễn Hoài, Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần, Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh Mục Trần
Tam Tĩnh, Việt Nam Máu Lừa Quê Hương
Tôi
của Đỗ Mậu, Việt Nam Dệ Nhất Cộng Hòa
Toàn Thư: 1954-1963
của Nguyễn Mạnh Quang, Những Bí Ẩn
Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Lê Trọng Văn, 9 Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Gia-Đình-Trị Ngô Đình Diệm của Nguyệt Đam &
Thần Phong, Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh
v..v...
Tuy
nhiên, để cho cuốn sách tạm gọi là đầy đủ về nội dung, tôi xin trích dẫn sau
đây hai tài liệu chứng tỏ đường lối tiếp tay và làm nội ứng cho giặc ngoại xâm
cùng hại nước hại dân của Giáo hội Gia Tô Việt Nam không hề thay đổi cho tới
khi nước nhà thống nhất năm 1975.
Theo
Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Dieu et César thì:
"Cuối năm
1945, Việt Nam giành lại được độc lập từ tay người Pháp, lòng yêu nước của
người Gia Tô VN bùng lóe lên với những cuộc biểu tình của hàng chục ngàn giáo
dân mang biểu ngữ và hô khẩu hiệu "Giáo Hoàng Muôn Năm", "Giáo
Hội Việt Nam của Người Việt Nam", "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" (Vive le Pape,
L'Église Vietnamienne aux Vietnamiens, Vive le Vietnam Indépendant.)
Nhưng
rồi Linh mục Tĩnh viết:
"Vậy,
với các giám mục và linh mục dẫn đầu, tín đồ Gia Tô muốn phá bỏ hình ảnh của
một giáo hội đã cộng tác với quân xâm lăng, một giáo hội phục vụ nước Pháp, một
giáo hội đã sống ngoài lề sự tranh đấu cho chủ quyền và tự do của dân tộc. Một
trang sử đã lật qua nhưng khốn thay chẳng được bao lâu"
(Ainsi,
avec les évêques et les prêtres en tête, les catholiques voulaient détruire
l'image d'une église collaboratrice avec les agresseurs, d'une église au
service de la France, d'une église qui avait vécu en marge d'un peuple en lutte
pour sa souvenaineté et sa liberté. Une page est tournée. Mais, malheureusement
pas pour longtemps.)
Tại
sao? Vì theo một sắc lệnh của Giáo Hoàng Pie XII ban hành ngày 1 tháng 7 năm
1949, tuyên bố "tuyệt thông" bất cứ người nào cộng tác với Cộng sản,
tuyên truyền cho CS, đọc sách báo CS v...v.. nên giáo hội Gia Tô Việt Nam lại
hợp tác với quân đội Pháp, được Pháp trang bị vũ khí để lập những chiến khu
"tự trị" như Bùi Chu, Phát Diệm..., lại đứng ngoài lề công cuộc kháng
chiến để bảo vệ nền độc lập mới thu hồi của dân tộc Việt Nam.
Cùng
một nhận xét, dựa trên những sự kiện lịch sử, Cao Huy Thuần viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, trg. 547-548:
"Sau ngày
Việt Nam tuyên bố độc lập vào tháng 8-1945, những tín đồ Thiên Chúa, trong một
tình yêu nước nồng nhiệt mới mẻ hoàn toàn, đã xác định rõ rệt và long trọng
lòng tha thiết với độc lập và quyền lợi dân tộc.
"Các con
chiên Việt Nam, tờ Kỷ Yếu các phái bộ viết, biết rằng tương lai của tôn giáo họ
được nêu lên. Nếu họ chứng tỏ được lòng yêu nước ra dưới mắt của cả nước, chắc
chắn họ sẽ lấp được cái hố còn ngăn cách họ với đồng bào phi-Thiên Chúa của họ.
Nếu họ khước từ, họ làm cho cái hố đó không vượt qua được. Vì thế không còn gì
phải nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành động. Đa số con
chiên đã lựa chọn. Được các giám mục của giống nòi họ soi sáng và ủng hộ, họ
không còn muốn phạm lỗi lầm của những người trước trong thế kỷ vừa qua. Họ
cương quyết không chịu làm lại tín ngưỡng mình bằng cách dính líu với chính
quốc. Họ muốn bảo vệ sự độc lập của đạo Thiên Chúa bằng cách cùng làm việc với
đồng bào phi-Thiên Chúa của họ cho xứng nghĩa của nền độc lập của tổ
quốc." (Giibal, Les Catholiques en Vietnam. Buổi diễn thuyết tại Trung Tâm
Nghiên Cứu Á-Phi, Paris, 1953.)
Và vì thế bốn
Giám mục Việt Nam lập tức lựa chọn lấy mấy lập trường vào ngày 23-9-1945, họ đã
viết thư cho Giáo hoàng Piô XII nhân danh "dân tộc Việt Nam" để yêu
cầu "sự ban phước lành, lòng đại lượng cùng các lời cầu nguyện để ủng hộ
nền độc lập mà nó vừa mới thu hồi được và bảo vệ bằng mọi giá." (Ibid.)
Đó
là lần đầu tiên mà đạo Thiên Chúa Việt Nam chịu hòa mình trong cộng đồng dân
tộc và gắn liền quyền lợi của họ vào quyền lợi đất nước. Nhưng than ôi! Tia lửa
yêu nước vụt tắt ngay mấy tháng sau, Pháp đổ quân vào Việt Nam, chiến tranh
Đông Dương bùng nổ và tín đồ Thiên Chúa lại hợp tác với ngoại bang."
Đọc
hai đoạn văn trên của Linh mục Trần Tam Tĩnh và Tiến sĩ Cao Huy Thuần, tôi cho
rằng cả hai vị đều đánh giá quá cao "lòng yêu nước bùng lóe lên nhưng rồi
lại tắt ngấm" của những tín đồ Gia Tô Việt Nam trong thời kỳ nước nhà mới
thu hồi nền độc lập.
Thứ
nhất, một người Việt Nam yêu nước thực sự thì không bao giờ cần đến sự ban
phước lành của Giáo hoàng cho nền độc lập của nước nhà, bởi vì Giáo hoàng và
Giáo hội Gia Tô La Mã đã đóng vai chủ chốt trong việc xâm chiếm nước Việt Nam,
đặt Việt Nam dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, điều này đã được chứng minh rõ
ràng trong những tài liệu đã trích dẫn ở trên. Chưa kể là phép lành của Giáo
hoàng thì có giá trị gì đối với hơn 90% dân chúng Việt Nam phi-Gia Tô, đó chỉ
là một thứ thần quyền tự nhận của Giáo hoàng để ngự trị đám tín đồ thấp kém ở
dưới? Lịch sử Công Giáo ghi không thiếu gì những giáo hoàng vô đạo đức, là kẻ
loạn dâm, sát nhân v...v...
Thứ
nhì, bốn giám mục không thể nhân danh "dân tộc Việt Nam" để mà quỵ
lụy trước Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, xin xỏ ân huệ "ban phước
lành" không cần thiết và vô giá trị cho nền độc lập của Việt Nam. Nền độc
lập của Việt Nam là một thực thể tuyệt đối, được xây dựng bằng công ơn của tổ
tiên và xương máu của những người dân Việt yêu nước, không dính dáng gì tới một
tôn giáo mà thực chất "không thể tiêu hóa nổi" trong xã hội Việt Nam.
Nếu các giám mục nhân danh con chiên của họ, vào khoảng 8% dân số Việt Nam thì
đó là quyền của họ, nhưng họ không thể nhân danh "dân tộc Việt Nam"
được. Dân tộc Việt Nam cương quyết từ khước "phép lành" của Giáo hoàng
nếu thực sự ngài kém cỏi đến độ nghe theo lời cầu xin của bốn giám mục Việt Nam
và cưỡng ban phép lành trên đầu dân tộc Việt Nam.
Qua
những tài liệu trong chương này, chúng ta có thể thấy ngay rằng, ngay từ buổi
đầu, Giáo hội Gia Tô Việt Nam
đã tự tạo cho mình một hình ảnh không mấy tốt đẹp trong lòng đại khối dân tộc
Việt Nam.
Dù vậy, người Việt Nam
luôn luôn chủ trương "dĩ hòa vi quý" và mong muốn có sự hòa hợp tôn
giáo trong đại khối dân tộc. Nhưng sự hòa hợp này chỉ có thể thực hiện với một
số điều kiện. Vài đề nghị, coi như là để gợi ý, trong phần kết luận, hi vọng sẽ
đóng góp được phần nào trong mục đích tạo sự hòa hợp tôn giáo này.
THAY LỜI KẾT
Như
đã được minh định ngay từ đầu, cuốn sách này là tác phẩm của một người bạn,
không phải của kẻ thù. Nhưng rất có thể có những người chưa thoát ra khỏi được
cái bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã (Dr. Barnado: The thick darkness of
Romanism), nên vẫn coi những người viết ra những sự thật trái ngược với những
lời "Giáo hội dạy rằng" là kẻ thù, và chụp lên đầu họ đủ thứ mũ, theo
đúng sách lược của Giáo hội.
Cái
mũ mà những người thuộc loại vô não này hay dùng nhất là cái mũ CS, nhưng nay
đã trở thành phá sản, vì nó chỉ còn sót lại trong những đầu óc chậm tiến nhất,
không biết gì đến thời cuộc quốc tế, đến tình hình chính trị thế giới và quốc
nội. Giáo hội Gia Tô La Mã thù ghét CS vì ý thức hệ CS đã phá tan ý thức hệ La
Mã ở Âu Châu, và riêng ở Á Châu thì có một điều chúng ta không thể phủ nhận, đó
là, theo Avro Manhattan: " Chủ nghĩa Cộng Sản... đã góp phần cho một sự
thức tỉnh nhanh chóng hơn của Á Châu, cho sự nổi giậy mau hơn của tinh thần
quốc gia của Á Châu, và cho sự chống lại Ki Tô Giáo của Á Châu quyết liệt
hơn."
Đối
với phần lớn Á Châu, và ngay ở cà Đông Âu, cái nôi của Gia Tô Giáo, độc tài đỏ
không đáng sợ bằng độc tài đen, vì đỏ đã thay đổi, đang thay đổi và sẽ còn tiếp
tục thay đổi để phù hợp với sự khao khát của quần chúng cho hợp với những
truyền thống dân tộc. Riêng ở Việt Nam, vì sự sống còn của chính mình
nên CS không còn con đường nào khác, nếu không muốn đi đến hủy diệt. Con đường
dân tộc là con đường duy nhất. Con đường vì vài lợi lộc vật chất phù du trước
mắt mà liên kết với đen, để cho đen thao túng, là con đường của "Cô bé
quàng khăn đỏ", là con đường "đánh đu với tinh", kết quả ra sao,
chắc ai cũng có thể hiểu nổi.
Cái
mũ thứ hai mà các tín đồ Gia Tô kém hiểu biết hay dùng là cái mũ "bôi nhọ
tôn giáo". Vì là những người không có mấy đầu óc, không biết gì về lịch sử
của tôn giáo mình, về thực chất của tôn giáo mình, nên họ quy tất cả những gì
trái ngược với lời "giáo hội dạy rằng" là bôi nhọ tôn giáo. Họ chỉ
nói mà không suy nghĩ. Thực tế là, cái gì đang trắng mà người ta bôi đen thì
gọi là bôi nhọ. Nhưng nếu nó đã đen kịt rồi thì còn chỗ đâu để mà bôi nhọ được
nữa.
Cái
mũ thứ ba là "chống Gia Tô". Tôi xin hỏi lại, chống Gia Tô thì sao?
Chúng ta có nên chống những gì xấu ác hay không? Chúng ta có nên chống các cuộc
Thánh Chiến, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, sách lược phá hủy những nền văn hóa
phi-Gia Tô, sách lược bạo hành bách hại dân Do Thái, sách lược liên kết với
thực dân đi xâm lăng các nước kém mở mang, sách lược "ngu dân dễ trị"
v...v... không?
Nhưng
thế nào là chống và chống như thế nào? Tôi phân biệt rõ ràng giữa Giáo hội
GiaTô và các tín đồ GiaTô. Nếu những sách lược của Giáo hội GiaTô đã tạo nên
một lịch sử đen tối cho GiaTô giáo, điều này không có nghĩa là các tín đồ GiaTô
đều đen tối. Tôi tin rằng trong GiaTô giáo có rất nhiều người đức hạnh không
thua bất cứ người nào trong các tôn giáo khác. Tôi cũng quan niệm rằng, tự do
tín ngưỡng là quyền thiêng liêng của con người, kể cả quyền mê tín dị đoan.
Nhưng tôi không chấp nhận bất cứ ai dùng cái quyền tự do của mình, hay niềm tin
của mình, để chà đạp hay tiêu diệt tự do và niềm tin của ngưới khác, bằng những
thủ đoạn bất thiện, ác độc. Tôi viết ra đây những sự kiện lịch sử của Giáo hội
Gia Tô La Mã toàn cầu cũng như của Giáo hội Gia Tô Việt Nam là để chúng ta thấy
rõ sự thật lịch sử, nhờ đó mà chúng ta có thể tìm ra phương cách giải quyết
những vấn đề còn nhức nhối trong lòng dân tộc. Tôi tin rằng đa số người dân
Việt Nam không bao giờ quy trách cho thế hệ những người Gia Tô hiện nay về
những việc làm của những thế hệ Gia Tô trong quá khứ. Chuyện tội của Cha Ông mà
con cháu phải gánh chịu là chuyện của một số người có đầu óc của thời bán khai,
man rợ, chuyện trong Thánh Kinh, không phải là chuyện của thời văn minh hiện
đại.
Qua
tám chương vừa trình bày ở trên, đến đây chắc quý độc giả đã thấy rõ phần nào
thực chất của Gia Tô La Mã Giáo, một tôn giáo có nhiều tín đồ nhất trên hoàn
cầu, thường được rao giảng là "thánh thiện", mang "tin mừng Phúc
Âm" đến cho nhân loại, nhưng lịch sử cũng lại chứng tỏ rằng đó là một tôn
giáo đẫm máu những người vô tội nhiều nhất trên thế gian. Đây là một sự kiện
lịch sử mà không ai có thể phủ nhận. Làm sao chúng ta có thể giải thích được
cái nghịch lý này, vì hai bộ mặt trái ngược nhau của Gia Tô La Mã Giáo, trên
nguyên tắc, có tính loại trừ hỗ tương (mutual exclusive): có cái này thì không
thể có cái kia.
Trong
phần kết luận này, trước khi đưa ra vài đề nghị để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo
thực sự trong đại khối dân tộc, tôi muốn trình bày cùng quý độc giả một sự kiện
lịch sử khác. Đó là hiện trạng Ki Tô Giáo nói chung, Gia Tô Giáo nói riêng, ở
Âu Châu, một lục địa đã một thời có thể coi như toàn tòng Ki Tô Giáo, như là
cái nôi của Ki Tô Giáo. Chúng ta vẫn cho rằng người Âu Châu tiến bộ hơn mình,
vậy hiện trạng tôn giáo ở Âu Châu rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ.
Sau
đây là vài đoạn trích dẫn trong cuốn Missionaries về hiện trạng tôn giáo ở Âu
Châu. Cuốn sách này là một tác phẩm nghiên cứu về những thành quả truyền giáo
của Ki Tô Giáo nói chung trên khắp thế giới, đi kèm với một chương trình TV 6
kỳ của đài BBC.
Trang
242:
"Âu
Châu đã trở thành một nơi làm cho Ki Tô Giáo ngượng ngùng, bối rối, một lục địa
mà nhà Thần học Đức Kierkegaard gọi là của những "người đã rửa tội theo Ki
Tô Giáo nhưng lại theo tà giáo hoặc theo đa thần giáo ". Nói một cách ngắn
gọn, Âu Châu, trong nhiều thế kỷ là cái nôi của Bộ Truyền Giáo (đi truyền giáo
các nơi), nay đã trở thành một miền đất phải truyền giáo.
...Người
ta sợ rằng nếu Âu Châu cứ tiết tục quay lưng lại Thượng đế, thì có thể đến lúc
Thượng đế sẽ quay lưng lại Âu Châu.
...
Những thừa sai truyền giáo tin rằng Âu Châu đang ở trong nguy cơ bị tràn ngập
bởi một cao trào thế tục."
(Europe
had become "an embarrassment to Christianity", a continent of what
the German theologian Kierkegaard called "baptized pagans". In short,
Europe, for centuries the craddle of Christian Mission, had itself become a
mission field.
...There
is a fear that if Europe continues to turn its back on God, the time may come
when God will turn His back on Europe
...The
missionaries believe that Europe is in danger of being swamped by a tiadal wave
of secularism.)
Trang
244:
"Một
thống kê thường được kể tới trong giới những thừa sai truyền giáo là ở Pháp có
nhiều người chữa bệnh duy linh hơn là các y sĩ. Các tôn giáo Đông phương cũng
ngày càng được biết tới nhiều hơn khắp Âu Châu.
...Tuy
trước đây có nhiều trường hợp ngoại lệ, giới trung lưu, nếu không phải là mang
cái mặc cảm "sợ Chúa", thì cũng vẫn đi lễ nhà thờ. Một thế kỷ sau,
tình hình đã khác hẳn. Cái chứng bệnh bỏ Chúa đã lan vào giới trung lưu và ngay
cả những giáo xứ ở các vùng thôn quê, mạch sống của Giáo hội, cũng bị tiêm
nhiễm bệnh chứng này. Năm 1851, vào khoảng 40% dân chúng đi lễ nhà thờ ngày chủ
nhật. Một thế kỷ sau (1950), số người đi lễ ngày chủ nhật chỉ còn vào khoảng
10%.
...Những
nhà thống kê tránh né những con số nói về thực trạng những tín đồ Ki Tô ở Anh
quốc. Một vài người cho rằng số người đi lễ nhà thờ chỉ vào khoảng 4%.
...Nhiều
nhà thờ trong khắp nước Anh bị bỏ trống, vô thừa nhận. Đặc biệt ở Luân Đôn,
biến cải nhà thờ thành một cơ sở khác là một thương vụ hái ra tiền. Những ánh
đèn nhấp nháy để nhảy Disco đã soi sáng những tấm kính màu sắc sặc sỡ của một
nhà thờ chính tại Luân Đôn và nay nhà thờ đó mang tên "Sân khấu hộp
đêm".
Nhưng
sự quan tâm về sự suy giảm đời sống tinh thần ở Anh, so với Pháp, thì chẳng là
gì. Theo một thừa sai (Tin Lành; TCN) Hoa Kỳ, David Barnes, thì "tuy có một
nền văn hóa phong phú, người Pháp cũng không biết đến Thượng-đế như là những
dân mọi rợ ở trong một lục địa tăm tối nhất của thế giới." (Bản chất của
các thừa sai Tin Lành cũng đần độn và cuồng tín không thua gì những thừa sai
Gia Tô; TCN). Trong số 54 triệu dân Pháp, chỉ có 0.22% (vào khoảng 1 triệu 200
ngàn; TCN) người theo Tin Lành. Tuy 94% dân Pháp rửa tội theo Gia Tô La Mã
Giáo, chỉ có 2% đi lễ nhà thờ đều. Dù ảnh hưởng của Gia Tô Giáo ở Pháp rất lớn,
Hội Truyền Giáo Những Nơi Chưa Biết Đến Phúc Âm đã tuyên bố Pháp là nơi cần
phải truyền giáo."
(A
frequently quoted statistic in European missionary circles is that there are
more spiritualist healers in France than medical doctors. Eastern religions are
also growing in popularity throughout Europe.
...Although
there were notable exceptions, the middle classes remained, if not God-fearing,
then at least church-going folks. A century later the picture had completely
changed. The disease had spilled into middle-class surburbia and even the
life-blood of the Church, the rural parishes, had been infected. On census
Sunday in 1851, some 40 per cent of the population went to church. A century
later it was nearer 10 per cent.
The
statisticians quibble about just how low the figures are for practising
Christians in Britain. Some argue that consistent church attendance is as low
as 4 per cent. ...Churches all over Britain lie abandoned and derelict. In
London particularly, church conversion has become big business. Disco lights
illumate the stained glass windows of one of one central London church, renamed
the Limelight Nightclub.
...But
concern over Britain's spiritual welfare is nothing compared to that over
France. According to the American missionary David Barnes, despite the richess
of their culture, the French "are as ignorant of the things of God as the
uncivilized natives of one of the world's darkest continents". A mere 0.22
per cent of France's 54 million population are evangelical Protestants.
Although
94 per cent are baptized Catholics, a mere 2 per cent regularly attend church.
Despite the huge influence of the Catholic Church, the Unevangelized Fields
Mission have declared France a mission field.)
Trang
246:
"Robert
Evans, sáng lập viên người Mỹ của Hội Mở Rộng Truyền Giáo ở Âu Châu, là một
trong nhiều nhà rao bán Phúc Âm đã đề nghị một biện pháp chữa căn bệnh tôn giáo
ở Pháp. Như là một thừa sai trong thế kỷ 19 nhận xét về Phi Châu, ông viết:
"Vì hầu hết những gia đình ở Pháp không có quyển Thánh Kinh nên dân Pháp
không có mấy ý niệm về tội lỗi. (Mấy ông Tin Lành không chấp nhận chế độ Giáo
hoàng của Gia Tô nhưng tuyệt đối tin vào quyển Thánh Kinh, coi đó như là những
lời mặc khải của Thượng Đế, là nguồn cảm hứng tuyệt vời về luân lý, đạo đức..
Theo triết gia nổi danh của Hoa Kỳ, George Santayana, thì "quyển Thánh
Kinh đích thực là nguồn cảm hứng tuyệt vời..cho những ai không hiểu nó "
(The Bible is a wonderful source of inspiration for those who do not understand
it). TCN)
...
Những thừa sai (Tin Lành) quy trách cho ai về tình trạng tôn giáo hiện thời ở
Pháp, Anh và phần còn lại bị giam hãm trong vòng dốt nát của Âu Châu? Evans
không còn nghi ngờ gì về những thủ phạm chính. Như hầu hết những nhà rao bán
Phúc Âm Tin Lành, Evans không tin Gia Tô La Mã Giáo là thực sự Ki Tô . Vì La Mã
đã thống trị rất hữu hiệu phần lớn Âu Châu, và vì cuộc Cải Cách Tin Lành chỉ có
một ảnh hưởng giới hạn, những thừa sai Tin Lành cho rằng nhiều quốc gia ở Âu
Châu chưa bao giờ có cơ hội được nghe Tin Mừng (Phúc Âm). Chủ thuyết vô thần
của Marx cũng làm cho sự suy thoái của tôn giáo mau hơn, và cùng với chủ thuyết
Gia Tô, đó là món quà độc hại nhất của lục địa Âu Châu mang tới cho thế
giới".
(...
Robert Evans, American founder of the Greater Europe Mission, is one of many
evangelicals who have recommended a cure for these French ills....As a
nineteenth-century missionary might have reflected on an African tribe, he
wrote: "Since most of the homes of France do not have the Bible, her people
show little sense of sin...
...Whom
do the missionaries hold responsible for the present spiritual condition of
France, Britain and the rest of benighted Europe? Evans has no doubts as to the
chief culprits. Like most evangelical Protestants, Evans does not believe that
the Roman Catholic Church is truly Christian. Since Rome so effectively
dominated much of Europe, and since the impact of the Reformation was only
partial, the missionaries argue that many countries of Europe have never had a
chance to hear the Good News at all... Atheistic Marxism has also hastened
Europe's spiritual decline, and along with Catholicism has been the continent's
most destructive gift to the world.)
Trang
247:
"Trong
cái bến tàu bên cạnh cái Giáo hội đã được củng cố vững chắc là những bậc trí
thức Âu Châu, những người mới đầu phủ nhận tư cách Thần thánh của ông Ki Tô
(Giê-su) và rồi sự hiện hữu của Thượng đế. Từ Voltaire và Rousseau trở về sau,
những bậc trí thức Âu Châu bị lên án là đã truyền bá những chủ thuyết nhân bản,
duy lý, hiện sinh, Mác-xít, mà nhà truyền giáo (Tin Lành) coi là những chủ
thuyết lạc đạo.
Thống
kê cho thấy Đệ Nhị Thế Chiến cũng là một nguyên nhân làm cho sự bác bỏ Ki Tô
Giáo ở Âu Châu mau hơn. Bắt đầu cuộc chiến, số người đi lễ nhà thờ ở Mỹ và ở
Anh thì tương đương. Khi chiến tranh chấm dứt, sáu triệu người Do Thái đã chết
trong những trại tập trung. Tuy vậy, người ta không hề thấy một hành động nào
của Thượng đế. Hitler và chủ thuyết Đức Quốc Xã hiển nhiên là xấu ác. Người ta
có quyền hỏi, nếu Thượng đế hiện hữu thì tại sao ông ta lại để cho sự xấu ác
như vậy nảy nở. (Chúng ta nên nhớ: các tín đồ Gia Tô đều tin rằng Thượng đế của
họ toàn năng, nghĩa là quyền phép vô biên, làm gì cũng được. Mấy ông ngồi ở
Vatican giải thích cho đám tín đồ Phi Châu, Á Châu rằng: đó là một bí nhiệm của
Thượng đế mà đầu óc con người không sao hiểu nổi, và tín đồ ở các nơi đây vẫn
hoan hỉ tin ở một Thượng đế toàn năng. TCN)
Đòi
hỏi những người Âu Châu tin vào một thế giới của Thượng đế và Satan có vẻ như
là đòi hỏi họ phải từ bỏ sự thông minh của chính mình. Quan trọng hơn nữa,
những lợi khí của thương vụ thừa sai: củ cà rốt "cứu rỗi" và cây gậy
"đày đọa đời đời" đã mất đi hiệu lực đe dọa rồi."
(In
the dock alongside the established Church are the European intellectuals who
first denied the deity of Christ and then the existence of God. From Voltaire
and Rousseau onwards, they stand accused of passing on their humanism,
rationalism, existentialism, Marxism, all of which the new missionaries regard
as so many heresies.
...Statistics
suggest that the Secon World War might also have accelerated Europe's rejection
of Christianity. At the outbreak of war church attendance in the US and Great
Britain was comparable. By the end of the war six million Jews had died in
concentration camps. Yet God was not seen to act. Hitler and Nazism were
manifestly evil. If God existed, then why, people were entitled to ask, had He
permitted such evil to flourish?
...Asking
Europeans to believe in a world of God and Satan, seems to be asking them to
deny their own intelligence. More importantly, the tools of the missionaries'
trade, the carrot and stick of salvation and damnation, have lost the power to
frighten.)
Tôi
trích dẫn vài tài liệu trên để cho chúng ta cùng nhau suy nghĩ. Tại sao Ki Tô
Giáo nói chung, Gia Tô Giáo nói riêng, lại không còn hấp dẫn đối với Âu Châu,
một lục địa mà chúng ta vẫn coi là văn minh tiến bộ nhất? Điều rõ ràng là ánh
sáng văn minh tiến tới đâu thì bóng tối của các tôn giáo độc thần phải lùi đi
bấy nhiêu.
Vấn
đề là, chúng ta, những con người Việt Nam, có muốn tiến lên cùng với xã hội văn
minh của loài người, hay là cam phận làm thân trâu ngựa, nô lệ cho những ý thức
hệ đã, đang, và sẽ bị phế thải ở trong những xã hội văn minh tiến bộ. Điều khôi
hài nhất đối với chúng ta là, khi xưa những nhà truyền giáo Âu Châu sang Á Đông
gọi là để "rao giảng tin mừng của Chúa cho những dân tộc mọi rợ chậm
tiến" nhưng tuyệt đại đa số những dân tộc Á Đông đã dứt khoát khước từ tin
mừng này. Và ngày nay, sau bốn thế kỷ, chính Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo
trong gần 20 thế kỷ, lại loại bỏ cái tin mừng này. Như vậy có phải là, ít ra là
về vấn đề tâm linh tôn giáo, người Á Đông thông minh hơn người Âu Châu hay
không? Điều khôi hài hơn nữa là ở Á Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, vẫn còn
một số người, phó sản của một ý thức hệ du nhập từ Âu Châu, lại bảo hoàng hơn
Vua, khư khư giữ lấy những thứ mà các chính quốc đã đang phế thải, coi chúng
như là báu vật của mình. Thật là tội nghiệp cho họ, cầu mong họ sớm mở mắt ra
ngày nào hay ngày đó.
Ở
Âu Châu thì tình trạng Ki Tô Giáo nói chung, Gia Tô Giáo nói riêng, như vậy. Ở
Mỹ thì sao? Nếu chúng ta theo dõi những tin tức trên báo chí, TV v..v.. thì
chúng ta sẽ thấy rằng tình trạng Gia Tô Giáo suy giảm rõ rệt. Nhiều trường học
Gia Tô phải đóng cửa vì không có học trò. Nhiều nhà thờ phải rao bán vì không
có tín đồ. Lớp sơn ngoài của Giáo hội Gia Tô trông vẫn còn hào nhoáng, nhưng
bên trong đã bị mối mọt đục khoét rữa nát. Tình trạng bỏ đạo của số đông Linh
mục và tín đồ đã làm cho giáo hội lo sợ. Vấn đề Linh mục cưỡng bách tình dục
trẻ em và nữ tín đô, đồng giới tình dục, nghiện rượu, đã lên tới mức độ mà Giáo
hội không có cách nào làm cho các tín đồ trong các nước văn minh tiến bộ tiêu
hóa nổi những luận điệu tự phong để tạo quyền lực như "Cha cũng như
Chúa" hay "Cha có quyền thay Chúa tha tội cho con". Gia Tô La Mã
Giáo suy thoái đến độ gần đây, ngày 27-11-1998, Giáo Hoàng John Paul II phải
bán rẻ Thiên đường để chiêu dụ đám tín đồ mù quáng bằng lời tuyên bố:
"Để
chào mừng thiên niên kỷ thứ ba của Ki Tô Giáo, những giáo dân đã gây ra tội lỗi
mà làm một việc từ thiện hay bỏ rượu hoặc thuốc lá trong một ngày thì sẽ được
xá hết tội, triệt tiêu được mọi hình phạt trên thế gian cũng như ở dưới ngục
luyện tội." (Theo báo Chuyển Luân ở bên Úc, số 13, điều này có nghĩa là
tín đồ Gia Tô có thể phom phom lên Thiên đàng trên xa lộ không đèn. TCN)
(Pope
John Paul II announced Friday that in celebration of entering the third millenium
of Christianity, penitents who do a charitable deed or give up cigarettes or
alcohol for a day can earn an "indulgence" to eliminate all
punishment on earth or in purgatory)
Sau
đây là vài nhận xét của tôi về Giáo hội Gia Tô Việt Nam. Theo tôi, tín ngưỡng
Gia Tô ở Việt Nam bị vướng vào bốn thế kẹt.
Thế
kẹt thứ nhất là lịch sử bành trướng của Giáo hội Gia Tô La Mã trong 2000 năm
nay, và qua những chương trên, chúng ta đã biết lịch sử đó như thế nào rồi.
Giáo hội đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại nói chung, dân tộc Việt Nam
nói riêng. Dù các tín đồ Gia Tô được đào tạo, khuyến khích trong một tâm cảnh
ích kỷ: "Tôi chỉ cần tin Chúa là được Chúa cứu rỗi", không cần biết
đến ai khác, nhưng họ không thể vứt bỏ được cái lịch sử đen tối của Giáo hội
Gia Tô La Mã trong 2000 năm nay. Họ không thể nói, thí dụ như, Giáo hoàng không
phải là Gia Tô Giáo, Giáo Hội không phải là Gia Tô Giáo, vì họ không thể phủ
nhận sự lệ thuộc của họ váo Giáo hoàng, vào Giáo hội, và cấu trúc của Giáo hội.
Trong Gia Tô Giáo, các con chiên chỉ có quyền độc nhất là quyền để cho giáo hội
dẫn dắt, và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của những kẻ chăn chiên. Cho nên,
ngày nào mà các con chiên còn chưa phá bỏ được cái hàng rào quyền lực của Gia
Tô Giáo thì ngày đó họ còn vướng vào cái lịch sử nhơ nhớp của Gia Tô Giáo, chỉ
đạo bởi Giáo hội và Tòa Thánh Vatican.
Thế
kẹt thứ hai là quyển Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước. Những tín đồ Gia Tô thường
không đọc Thánh Kinh nên vẫn tin những lời "Giáo hội dạy rằng": Quyển
Thánh Kinh là những lời mặc khải của Thượng đế đọc cho các Thánh tiên tri chép,
do đó không thể sai lầm. Với trí tuệ của con người hiện nay thì quyển Thánh
Kinh chứa rất nhiều điều sai lầm về khoa học cũng như về Thần học, chưa kể là
trong đó còn có những chuyện tàn ác, dâm loạn, vô lý không thể chấp nhận được
theo tiêu chuẩn luân lý, đạo đức ngày nay.
Thế
kẹt thứ ba là lịch sử thành lập Giáo hội Gia Tô Việt Nam bởi những thừa sai Gia
Tô ngoại quốc mà thực chất là những gián điệp thực dân, và lịch sử hợp tác, làm
tay sai cho những lực lượng xâm lăng ngoại quốc trong cuộc xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp, trong cuộc kháng chiến chống Pháp trở lại Việt Nam, và trong
mưu đồ Công giáo hóa miền Nam của Ngô Đình Diệm với sự phụ giúp đắc lực của
giáo hội và giáo dân.
Thế
kẹt thứ tư là sự lệ thuộc hoàn toàn vào Tòa Thánh Vatican, và đây chính là yếu
tố phi-dân tộc quan trọng nhất. Gần đây, có người trong giáo hội cho rằng người
Công Giáo cũng có tinh thần dân tộc. Bằng chứng là, ngày nay nhiều người Công
giáo cũng thờ cúng tổ tiên, cũng ăn giỗ ăn Tết, cũng lấy người ngoài đạo Gia Tô
mà không có sự ép buộc người hôn phối phài theo đạo v...v.. Nhưng chính những
điều này lại nói rõ hơn gì hết tinh thần nô lệ Tòa Thánh Vatican của Giáo hội
Gia Tô Việt Nam.
Thật
vậy, từ trước tới nay, giáo hội Gia Tô Việt Nam đã nổi tiếng là nhất cử nhất
động đều tùy thuộc Vatican. Khi Giáo Hoàng cấm thờ cúng tổ tiên thì giáo hội
dẹp bỏ hay xếp bàn thờ tổ tiên vào xó. Sau mấy trăm năm, khi Giáo Hoàng cho
phép thờ cúng tổ tiên lại, thì giáo hội, tuy không khuyến khích vì gần đây vẫn
còn có vị Linh mục gọi đó là "làm chay cúng ruồi", nhưng cũng không
ngăn cấm việc thờ cúng tổ tiên nữa. Khi Giáo Hoàng bắt phải làm lễ bằng tiếng
La Tinh thì giáo hội vẫn thản nhiên làm lễ bằng tiếng La-Tinh. Sau vài trăm
năm, khi giáo hoàng cho phép làm lễ bằng tiếng địa phương thì các lễ mới được
chuyển một phần sang tiếng Việt. Như vậy, đâu có phải là tinh thần dân tộc, vì
tinh thần dân tộc thì đâu có cần phải chờ lệnh của Tòa Thánh. Giáo hội chỉ làm
theo lệnh của Giáo hoàng chứ đâu có phải là thành tâm và đứng trên cương vị dân
tộc, vì nếu thành tâm và đặt dân tộc trên hết thì những chuyện này đã phải làm
từ lâu rồi đâu cần chờ lệnh của Giáo hoàng?
Chúng
ta cũng đã biết Giáo Hoàng John Paul II đã khuyên các con chiên phải ăn năn
thống hối về những bất hạnh mà Giáo hội Gia Tô đã mang đến cho nhân loại. Xét
cho cùng, chuyện sám hối hay lãnh trách nhiệm về những lầm lỗi của giáo hội Gia
Tô trong quá khứ là chuyện nội bộ của Giáo hội. Vả chăng, về phương diện lý
luận, nếu Giáo hội hiện tại tự cho cái tư cách đại diện các Giáo hội trong quá
khứ để sám hối và xin lỗi các quốc gia đã bị Giáo hội xâm lăng, tàn sát, và phá
hủy các nền văn hóa và tôn giáo của những quốc gia
này,
thì ai là những người có đủ tư cách để đại diện cho bao nhiêu triệu người chết,
người bị tra tấn, thiêu sống, người bị cưỡng bách cải đạo v...v... trong những
cuộc Thánh Chiến, trong 400 năm xử dị giáo với những tòa hình án, trong những
chính sách thực dân diệt chủng diệt nền văn hóa địa phương v...v... để mà nhận
lời sám hối hay tha tội cho Giáo hội?
Trong
bốn thế kẹt ở trên, tôi cho rằng, dù với một nỗ lực phi thường, Giáo hội Gia Tô
Việt Nam cũng chỉ có thể gỡ được nhiều nhất là hai: đó là cố gắng xóa bỏ cái
hình ảnh không mấy tốt đẹp của Giáo hội từ thuở ban đầu cho tới ngày nay, và
dứt khoát từ bỏ sự lệ thuộc vào Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican.
Rất
có thể Giáo hội Gia Tô sẽ có một chỗ đứng trong lòng dân tộc nếu họ dứt khoát
với quá khứ và thực sự đi vào con đường phục vụ dân tộc, bằng hành động chứ
không chỉ bằng lời nói. Người Việt Nam vốn tính dễ dãi, không hay nuôi hận thù,
nên dễ dàng quên quá khứ để đổi lấy sự hòa hợp tôn giáo trong đại khối dân tộc.
Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu họ có một bảo đảm nào đó.
Cho
nên vấn đề ngày nay không phải là ở chỗ ăn năn thống hối ngoài mặt về những sai
lầm trong quá khứ, mà là đưa ra một đường lối bảo đảm không tái phạm những sai
lầm quá khứ nữa. Sự hòa hợp tôn giáo ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra khi những
người phi-Gia Tô được bảo đảm bằng những hành động cụ thể của Giáo hội Gia Tô
Việt Nam về tính cách độc lập của Giáo hội trên thế giới và với điều tiên quyết
là đặt tổ quốc lên trên hết.
Nếu
Giáo hội Gia Tô Việt Nam thực sự muốn chứng tỏ là một giáo hội yêu nước, một
giáo hội đặt quyền lợi Tổ Quốc trên hết, một Giáo hội của người Việt, thì việc
trước tiên phải làm là họ phải dứt khoát từ bỏ tinh thần nô lệ Giáo Hoàng và
Tòa Thánh Vatican. Đây chính là truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam,
không chịu làm nô lệ cho ngoại bang dưới bất cứ hình thức nào. Họ phải tuyên bố
độc lập với Tòa Thánh Vatican, giành quyền tổ chức Giáo hội Việt Nam sao cho
hợp với dân tộc tính, giành quyền bổ nhiệm linh mục, giám mục riêng v..v.. Mối
liên hệ giữa Giáo hội Gia Tô Việt Nam và Tòa Thánh Vatican nhiều nhất là liên
lạc trên căn bản bình đẳng với Tòa Thánh về những vấn đề liên hệ đến niềm tin
tôn giáo.
Nếu
Giáo hội Gia Tô Việt Nam ra thông cáo chính thức tuyên bố đặt quyền lợi quốc
gia trên hết, nêu cao khẩu hiệu "Giáo hội Gia Tô Việt Nam của người Việt
Nam", khẳng định sự độc lập của giáo hội, bình đẳng đối với mọi giáo hội
Gia-Tô trên thế giới, kể cả đối với Tòa Thánh Vatican, và chính thức tuyên cáo
rộng rãi trong khắp các giáo xứ, bỏ những đòi hỏi phi lý như bắt phải học đạo
trong vấn đề hôn phối, bắt đứa con sinh ra phải rửa tội và theo đạo Gia Tô
v...v..,
chấm dứt xuyên tạc lịch sử, chấm dứt những âm mưu xuyên tạc và phá ngầm Phật
Giáo cũng như các tôn giáo khác ở Việt Nam
v...v...thì lo gì mà không có sự hòa hợp tôn giáo ở Việt Nam. Người Việt Nam bản chất vốn hiền hòa và dễ tha
thứ, trừ trường hợp phải đối phó với sự xâm lăng của ngoại bang và với những
người theo gót ngoại bang, phản bội dân tộc. Lịch sử đã chứng minh như vậy.
Có
như vậy, Giáo hội Gia Tô Việt Nam
mới có thể gọi là một giáo hội yêu nước, có tinh thần dân tộc.
Để
kết thúc, tôi nghĩ rằng có lẽ đoạn sau đây trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần,
trg. 548, thích hợp nhất:
"Đã biết
bao lần người Việt Nam phi-Thiên Chúa đã cho đồng bào Thiên Chúa của họ hiểu
rằng họ tôn trọng tôn giáo của Chúa Christ như tôn giáo họ (nếu tôn giáo của
Chúa Christ trở thành một tôn giáo của Việt Nam, mang đặc tính Việt Nam, và
không lệ thuộc bất cứ thế lực tôn giáo nào; TCN), rằng sự cuồng tín tôn giáo là
điều tuyệt đối xa lạ với tinh thần Việt Nam và rằng đạo Thiên Chúa Việt Nam chỉ
thật sự có tính cách dân tộc - điều mà mọi người hết lòng mong muốn - khi nào
nó đóng góp phần mình cho độc lập và thịnh vượng đất nước - dù có phải vì thế
mà chịu thiệt - chứ không làm cho đất nước nô lệ như trong dĩ vãng."
Như
vậy, con đường trước mặt của Giáo Hội Gia Tô Việt Nam đã rõ ràng, "không còn gì
phải do dự và nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành
động."
Theo
như thế nào? Tôi tin rằng Giáo hội Gia Tô Việt Nam có đủ khôn ngoan và trí tuệ để
chọn cho mình một con đường dân tộc thích hợp, thay cho con đường nô lệ đã
không còn thích hợp trong thế giới văn minh, hiện đại.
*
* * * *
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỌN LỌC
(SELECTED READINGS)
Aarons,
Mark $ Loftus, John, Unholy Trinity:
How The Vatican's Nazi Networks
Betrayed Western Intelligence to the Soviets, St. Martin's Press, New York, 1991.
Abbott,
Walter M., The Documents of Vatican II, An Angelus Book, New York, 1966.
Akerley,
Ben Edward, The X-Rated Bible: An
Irreverend Survey of Sex in The Scriptures, AA Press, Austin, Texas,
1989
Angeles,
Peter A., Critiques of God: Making The
Case Against Belief In God, Prometheus Book, New York, 1997.
Alves,
Rubem, Protestantism and Repression, Orbis Books, New York, 1979
Armstrong,
Karen, 1. A History of God, Ballantine Books, New York, 1993; 2. In The Beginning: A New Interpretation of Genesis, Alfred A. Knoff, New York, 1996.
Aterin,
Karl Otmar Von, The Papacy and the
Modern World,
Weidenfeld & Nicolson, London,
1970
Au,
William A., The Cross, The Flag, and
The Bomb,
Praeger, New
York, 1987.
Baigent,
Michael & Leigh, Richard & Lincoln, Henry, 1. Holy Blood, Holy Grail, A Dell Book, New York, 1983; 2. The Dead Sea Scrolls Deception, Summit
Books, New York,
1991. 3. The Messianic Legacy, A Dell Book, New York, 1986.
Bainton,
Roland H., Christian Attitudes Toward
War & Peace,
Abingdon Press, Nashville,
1986.
Baldwin,
Louis, The Pope and the Mavericks, Prometheus Books, New York, 1988.
Ball,
W. P., Foote, G. W. et al..., The
Bible Handbook,
AA Press, Austin, Texas, 1986.
Batchelor,
Stephen, The Awakening of the West:
The Encounter of Buddhism and Western Culture, Parallax Press, Berkeley, CA., 1994
Bays,
Jack, 1. The Gospel of Love, Truth Seeker, San Diego, CA., 1942; 2. The Gospel of Love Vs Crime, Truth Seeker, San Diego, CA., 1942; 3. The Shadow of the Deamon, Truth Seeker, San Diego, CA., 1943.
Beeson,
Trevor & Pearce, Jenny, A Vision
of Hope: The Churches and Change in Latin America, Fortress Press, Philadelphia, 1984
Bello, Nino Lo , The Vatican Empire, Triden Press, New York,
1968.
Berry, Jason, Lead Us Not To Temptation: Catholic Priests and the
Sexual Abuse of Children, Doubleday,
New York, 1992
Berryman,
Phillip, Liberation Theology, Pantheon Books, New York, 1987
Bhushan,
Shashi, Fundamentalism: A Weapon Against Human Aspiration, Pradeep Kumar, India,
1986
Binns,
L. Elliott, The Decline and Fall of
the Medieval Papacy,
Barnes & Nobles Books, New York,
1995.
Blanshard,
Paul, 1. American Freedom and Catholic
Power,
Beacon Press, Boston,
1950; 2. Communism, Democracy, and
Catholic Power,
Beacon Press, Boston,
1951
Bloodworth,
Dennis, The Chinese Looking Glass, A Delta Book, New York, 1968.
Boff,
Leonardo, 1. Church: Charism &
Power,
Crossroad, New York,
1986; 2. Faith on the Edge, Orbis Books,
New York, 1989
Bringas,
Ernie, Going By The Book: Past and
Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton
Roads Pub. Co., VA., 1996
Brown,
Michael L., Our Hands Are Stained With
Blood: The Tragic Story of the "Church" and the Jewish People, Destiny Image Pub.,
1992.
Burkett,
Elinor & Bruni, Frank, A Gospel of
Shame: Children, Sexual Abuse, and the Catholic Church, Viking, New York, 1993
Bussmann,
Clauss, Who Do You Say? Jesus Christ
in Latin American Theology, Orbis Book,
New York, 1985.
Cairns, D. S., The Faith That Rebels: A Re-Examination of the
Miracles of Jesus,
Doubleday, New York 1928.
Chamberlin,
E. R., The Bad Popes, A Signrt Book, New York,
1969.
Chu
Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao, NXB Mẹ Việt Nam, CA., 1993.
Chu Văn Trình, 1. Gia Tô Thực Dân Sử
Liệu, Florida,
1990; 2. Sách Lược GiaTô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu, Florida, 1990; 3. GiaTô Thực Dân Chính Sử, Florida, 1993; 4. Gián Điệp Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ, Florida, 1996.
Cao
Huy Thuần, Les Missionaires et la
Politique Coloniale Francaise au Vietnam (1857-1914), Yale Southeast Asia Studies,
1990. (Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, Hương Quê, Cali., 1988)
Carmichael,
Joel, "The Birth of Christianity:
Reality and Myth", Dorset Press, New
York, 1989.
Cavendish,
Richard, Mythology: An Illustrated
Encyclopedia,
Barnes & Nobles Books, New York,
1993
Cowie,
Leonard W., The March of the Cross, McGraw-Hill Book
Co., Inc., 1962.
Cox,
Harvey,
1."The Silencing of Leonardo
Boff: The Vatican and the
Future of World Christianity", Meyer-Stone Books, Oak-Park, IL.,
1988; 2. "Many Mansions: A
Christian's Encounter With Other Faiths", Collins, London, 1988; 3. Military Chaplains: From a Religious Military to a
Military Religion,
Abingdon Press, 1971.
Cross,
Colin, Who Was Jesus, Barnes & Nobles
Books, New York,
1993.
Crossan,
John Dominic, Who Killed Jesus?, Harper, San Francisco, 1996.
Croucher,
Paul, Buddhism in Australia, 1848-1988, New South Vales
University Press, AU.,
1989
Daleiden,
Joseph L., The Final Superstition: A
Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994
Dalian, Robert, Dieu Contre Dieu, Édité par l'Homme Lucide, France,
1974
Dareff,
Hal, The Story of Vietnam, Avon Books, New York, 1966.
Davies,
A. Powell, The Meaning of the Dead Sea
Scrolls,
A Mentor Book, New York, 1956.
Davies,
J. G., The Early Christian Church, Barnes & Nobles
Books, New York,
1995.
DeBlassie,
Paul, Toxic Christianity, Crossroad, New York, 1992.
Đỗ
Mạnh Tri, Ngón Tay và Mặt Trăng, Đường Sống xuất
bản, Cali., 1997
Đỗ
Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ Publishing
Co., CA., 1993.
Đỗ
Quang Hưng, Một Số Vấn Đề Lịch Sử
Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam, Đại Học Tổng Hợp
Hà-Nội, 1991.
Ducey,
Michael H., Outgrowing Catholicism, The Windhover
Press, Madison, WI 1990
Dunn,
Joseph, The Rest of Us Catholics: The
Loyal Opposition,
Templegate Publishers, Illinois,
1994.
Durant,
Will & Ariel, The Age of Voltaire, MJF Books, New York, 1992
Eaton,
Frederick Heese, Scandalous Saints, Own Pub., CA, 1994
Ellul,
Jacques, The Subversion of
Christianity,
William B. Eerdmans Publishing Company, Michigan,
1986.
Ferm,
Deane William, Third World Liberation
Theologies,
Orbis Book, New York, 1987
Flamini,
Roland, Pope, Premier, President, McMilland Pub., New York, 1980.
Floyd,
William, Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941.
Foner,
Philip S., The Life and Major Writings
of Thomas Paine,
A Citadel Press Book, New York,
1993
Foote,
G.W., Bible Romances, The Pioneer Press, London, 1922
Forest,
Alain & Tsuboi, Yoshiharu, Catholicism
et Sociétés Asiatiques, L'Harmattan, Tokyo,
1988
Fricke,
Weddig., The Court-Martial of Jesus: A
Christian Defends The Jews Against The Charge of Deicide, Grove Weidenfeld, New
York, 1990.
Friedman,
Richard Elliott, 1. Who Wrote The
Bible?,
Harper & Row, Publishers, New
York, 1989; 2. The
Disappearance of God,
Little, Brown & Co., New York,
1995
Funk,
Robert W. & Hoover, Roy W. & The Jesus Seminar, The Five Gospels: What Did Jesus Say?, Scribner, New York,
1996
Gaylor,
Annie Laurie, Betrayal of Trust,
Clergy Abuse of Children, Freedom from Religion Foundation, WI, 1988.
Gauvin,
Marshall J., One Hundred
Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922
Gibbon,
Edward, The Decline and Fall of the
Roman Empire,
Hartcourt, Brace and Company, New
York 1960.
Graham,
Lloyd M., Deceptions & Myths of
the Bible,
The Citadel Press Book, New York,
1995.
Granfield,
Patrick, The Limits of the Papacy, Crossroad, New York, 1990.
Greeley,
Andrew M., 1. The Jesus Myth, Doubleday, New York,
1971; 2. The Catholic Myth, Charles Scribner's
Sons, New York,
1990.
Green,
Ruth Hurmence, 1. The Book of Ruth, Freedom From
Religion Foundation, Wisconsin,
1982; 2. The Born Again Skeptic's
Guide to the Bible", Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979.
Greenleaf,
Richard E., The Roman Catholic Church
in Colonial Latin America,
Alfred A. Knopf, New York, 1971
Guillemin,
Henri, Malheureuse Église, Éditions Du Seuil,
Paris, 1992
Hammer,
Richard, The Vatican Connection, Chanter Books,New York, 1983.
Hadden,
Jeffrey K., Prophetic Religions &
Politics,
Paragon House, New York,
1986.
Thích
Nhất Hạnh, Living Buddha, Living
Christ,
Riverhead Books, New York,
1995
Hanson,
Eric O., The Catholic Church in World
Politics,
Princeton University Press, New Jersey, 1987
Harris,
Michael, Unholy Orders, Tragedy at
Mount Cashel,
Penguin Books Ltd., Middlesex,
England, 1990
Harwood,
William, Mythology's Last Gods, Yahweh
and Jesus,
Prometheus Books, New York,
1992
Haught,
James A., 2000 Years of Disbelief:
Famous People With The Courage To Doubt, Prometheus Books, New York, 1996.
Hayward, F. H., Questions for Catholics: A Brief Inquiry Into The
Catholic Argument,
Watts & Co., London,
1928
Hebblethwaite,
Peter, In The Vatican: How The Church is Run - Its
Personalities, Traditions and Conflicts, Adler
& Adler,
Maryland, 1986.
Helms,
Randel McCraw, Who Wrote The Gospels?, Millennium Press,
CA, 1997.
Hitchcock,
James, Catholicism & Modernity, Servant Books, Michigan, 1979.
Hobley,
Leonard F., Christians and
Christianity,
Wayland Publishers, England,
1979.
Hoffer,
Eric., The True Believer, Harper & Row, New York, 1966.
Hofmann,
Paul, O Vatican! A Slightly Wicked View of
the Holy See,
Congdon & Weed, Inc., New York,
1984.
Humphreys,
Christmas, Zen Comes West, Allen & Unwin, London, 1960
Huxley,
Julian, Religion Without Revelation, A Mentor
Book, New York,
1957.
Hyers,
Conrad, The Comic Vision and the
Christian Faith,
The Pilgrim Press, New York,
1981.
Ide,
Arthur Frederick, Unzipped: The Popes
Bare All, A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican, AA Press, TX, 1987.
Imbens,
Annie & Jonker, Ineke, Christianity
& Incest,
Fortrss Press, MN, 1992.
Ingersoll,
Robert G., 1. Some Mistakes of Moses, Freethought Press
Association, New York,
1967; 2. Sixty Five Press Interviews, AAP, Austin, Texas,
1983
John
Paul II, Crossing the Threshold of
Hope,
Alfred A. Knof, New York,
1994.
Jones,
Cheslynn & Wainwright, Geoffrey & Yarnold, Edward, The Study of Lithurgy, Oxford University
Press, New York,
1978.
Kasmar,
Gene, All The Obscenities in the
Bible,
Kas-mark Pub., MN, 1995.
Kasper,
Walter, The God of Jesus Christ, Crossroad, New York, 1986.
Kavanaugh,
James, 1. A Modern Priest Looks at his
Outdated Church,
Pocket Books, New York,
1968; 2. God Lives: From Religious
Fear To Spiritual Freedom, Steven J. Nash Pub., IL., 1993; 3. The Birth of God, Pocket Book, New York, 1970
Kersten,
Holger, Jesus Lived in India:
His Unknown Life Before & After the Crucifixion, Element Books
Limited, Rockport, MA., 1994.
Kersten,
Holger & Gruber, Elmar R., 1. The
Jesus Conspiracy: The Turin & The Truth About The Resurrection, Barnes & Nobles
Books, New York, 1995; 2. The Original
Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA,
1995.
Kirvan,
John J., The Infallibility Debate, The Missionary
Society, New York,
1971.
Konakis,
Gregory, Elaborations, A Self-Published
Book, 1995
Kraft,
Charles F., Genesis: Beginnings of the
Biblical Drama,
Board of Missions, New York,
1964.
Kung,
Hans, 1. On Being A Christian, Wallaby, New York, 1978; 2. Infallible? An Inquiry, Doubleday, New York,
1971.
Lamb,
Helen B., Vietnam's Will To Live, Monthly Review Press, New York, 1972
Las
Vergnas, Georges, Pourquoi J'ai Quitté
L'Église Romaine,
Imprimerie Les Comtois, Besancon,
France 1956
Lê,
Nicole-Dominique, Les
Missions-Étrangères et la Pénétration Francaise au Viet-Nam, Mouton & Co., France,
1975.
Lê
Trọng Văn, 1. Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới
Chế Độ Ngô Đình Diệm,
NXB Mẹ Việt Nam,
CA., 1989; 2. Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi
Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng, San Diego,
CA., 1996; 3. Pétrus Trương Vĩnh Ký:
Tuyển Tập,
San Diego, CA.,
1996.
Lea,
Henry Charles, The Inquisition of the
Middle Ages,
Barnes & Nobles Books, New York,
1993.
Leclercq,
Jacques, Christianity and Money, Hawthorn Books, New York, 1960.
Lernoux,
Penny, 1.Cry of the People, Penguin Books, New York, 1991; 2. People of God, Penguin Books, New York, 1989
Lewis,
Joseph, 1. Ingersoll: The Magnificent, AA Press, Texas, 1983; 2. The
Bible Unmasked,
The Freethought Press Association, New
York, 1941.
Lewis,
Norman, The Missionaries: God Against
The Indians,
Penguin Books, New York,
1988.
Lorulot,
André, 1. Les Secrets des Jésuites, Herblay, France,
1933; 2. Lourdes: La Vérité sur les Visions de Brenadette. Le
Mercantilisme de la Grotte, Herblay (Seine-et-Oie), France, 1933.
Lý
Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc, Lửa Thiêng, Saigon, 1973
Lý
Chân, Thầy Là Ai? Tài Liệu Nghiên Cứu
Phúc Âm, Canada,
1997
Lynch,
Christopher Owen, Selling Catholicism:
Bishop Sheen and the Power of Television, The University Press of Kentucky, 1998.
Maccoby,
Hyam, The Mythmaker: Paul and The
Invention of Christianity, Barnes
& Nobles,
New York, 1986.
Manhattan, Avro, 1. The Vatican's
Holocaust,
Ozark Books, Springfield, MO., 1986; 2. The Vatican Billions, Paravision Books, London, 1972; 3. Catholic Imperialism and World Freedom, Watts & Co., London, 1952; 4. Vietnam: Why Did We Go?, Chick Publications, CA., 1984
Martin,
Malachi, 1. The Keys to this Blood, A Touchtone Book, New York, 1990; 2. Rich Church, Poor Church, G.P. Putnam's Sons,
New Yok, 1984.; 3. The Decline and
Fall of the Roman Church, Bantam Books, New
York, 1983; 4. The
Jesuits, The Society of Jesus, and The Betrayal of the Roman Catholic Church, Simon &
Schuster, New York, 1987.
Martin,
Michael, The Case Against Christianity, Temple University
Press, Philadelphia,
1991
Martin,
Ralph, A Crisis of Truth: The Attack
on Faith, Morality, and Mission in the Catholic
Church,
Servant Books, Michigan,
1982.
McCabe,
Joseph, 1. The Vatican's Last Crime:
How The Black International Joined the World-Plot Against Freedom, Liberalism,
and Democracy,
Haldeman-Julius Co., Kansas, 1941; 2. Rome
Puts the Blight on Culture: The Roman Church the Poorest in Cutlure and Richest
in Crime,
Haldeman-Julius Publications, Kansas 1942; 3. The Church: The Enemy of the Workers. Rome
is the Natural Ally of All Exploiters, Haldeman-Julius Publications, Kansas 1942; 4. The Truth About The Catholic Church, Haldeman-Julius
Publications, Kansas,
1926; 5. The Totalitarian
Church of Rome:
Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box, Haldeman-Julius
Publications, Kansas,
1942
McLeod,
Mark W., The Vietnamese Response to
French Intervention: 1862-1874, Praeger, New York, 1991
McLoughlin,
Emmet, 1. American Culture and
Catholic Schools,
Lyle Stuart, Inc., New York,
1960; 2. People's Padre, Beacon Press, Boston, 1961; 3. Crime and Immorality in the Catholic Church, Lyle Stuart, Inc., New York, 1962; 4. Letters to an Ex-Priest, Lyle Stuart, Inc., New York, 1965
Minerbi,
Sergio I., The Vatican & Zionism, Oxford University
Press, New York,
1990.
Monk,
Maria, The Awful Disclosures of Maria
Monk: The Hidden Secrets Of Convent Life, Random House, London, 1997
Morlat,
Patrice, La Répression Coloniale au Vietnam (1908-1940), L'Harmattan, Tokyo, 1990.
Mott,
George F. & Dee, Harold M., Middle
Ages,
Barnes &
Nobles, New York,
1967.
Muggeridge,
Malcom., The End of Christendom, W. B. Eerdmans
Pub., Michigan,
1980.
Murphy,
Paul I., La Popessa: The Controversal
Biography of Sister Pascalina, The Most Powerful Woman in Vatican, Warner Books, New York, 1993.
Nguyễn
Kha & Trần Chung Ngọc, Nguyễn
Trường Tộ: Thực Chất Con Người và Di Thảo, Giao Điểm, Cali., 1998
Nguyễn
Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư: 1954-1963, Tác giả Tự xuất
bản, Seattle,
1998.
Nguyễn
Xuân Thọ, Histoire de la Pénétration
Francaise au Viet Nam (1858-1897), Trung Tâm Văn Hóa Linh Sơn, HI., 1993
Nguyệt
Đam & Thần Phong, Chín Năm Máu Lửa
Dưới Chế Độ Gia Đình Trị Ngô Đình Diệm, Tác Giả Xuất Bản, Saigon,
1964.
Nichols,
Peter, The Politics of the Vatican, Frederick A. Praeger, Publishers, New York, 1968
Nickell,
Joe, 1. The Shroud of Turin,
Prometheus
Books, New York,
1983; 2. Inquest on the Shroud of Turin, Prometheus Books, New York, 1987.
Obianyido,
Anene, Christ or Devil? The Corrupt
Face of Christianity in Africa, Delto Publications Limited, 1988
O'Brien,
George Dennis, God and the New Haven
Railway,
and why Neither One is Doing Very Well, Beacon Press, Boston, 1986
O'Brien,
John A., The White Harvest: A
Symposium on Methods of Convert Making, The Newman Press, Maryland, 1952.
O'Connor,
John., The People Versus Rome, Random House, New
York, 1969.
O'Hair,
Madalyn & John Murray, All The Questions You Ever Wanted To Ask American
Atheists,
AA Press, Austin, Texas, 1986.
Padchi,
The Holy Humbugs, Arivagam, Sri Lanka.
Pagels,
Elaine, The Gnostic Gospels, Random House, New York, 1979
Paris, Edmond,
Genocide in Satellite Croatia: 1941-1945, The American
Institute for Balkan Affairs, Chicago,
1961
Peters,
Edward, Inquisition, The Free Press, New York, 1988.
Petersen,
Norman R., Literary Criticism for New
Testament Critics,
Fortress Press, PA, 1978
Pettifer,
Julian & Bradley, Richard, Missionaries, BBC Books, London, 1990.
Picknett,
Lynn & Prince, Clive, Turin Shroud, In Whose Image? The Shocking Truth Unweiled, Bloomsbury, London, 1994.
Pigott,
Adrian, Freedom's Foe - The Vatican, The Pioneer Press,
1965
Plaidy,
Jean, The Spanish Inquisition, Barnes & Nobles
Books, New York,
1994
Rajneesh,
B.S., Priests & Politicians: The
Mafia of the Soul,
The Rebel Publishing House, Cologne,
Germany, 1987
Ranke-Heinemann,
Uta, Eunuchs For The Kingdom of Heaven, Penguin Books,New York, 1991.
-------
, Putting Away Childish Things, Harper-Collins
Pub., San Francisco,
1995
Rappoport,
Angelo S., The Love Affairs of the
Vatican or The Favorites of The Popes, Barnes & Nobles Books, New York, 1995
Rausch,
David A., A Legacy of Hatred: Why
Christians Must Not Forget the Holocaust, Moody Press, Chicago, 1984
Reese,
Thomas J., In The Vatican: The Politics and Organization of the
Roman Catholic Church,
Harvard University Press, MA., 1996
Remsburg,
John E., False Claims, The Truth Seeker
Company, New York,
1928
Rice,
David, Shattered Vows, Priests Who
Leave,
William Morrow & Co., Inc., New
York, 1990
Robinson,
John J., Dungeon, Fire and Sword, M. Evans &
Company, Inc., New York,
1991.
Peter
de Rosa, Vicars of Christ: The Dark
Side of the Papacy,
Crown Publishers, New York,
1988
Ruethe,
Rosemary, Liberation Theology, Paulist Press, New York, 1972.
Russell,
Bertrand, Why I Am Not A Christian, A Touchtone Book, New York, 1957
Russer,
Maximilian F., Authority in the Roman
Catholic Church,
Vantage Press, New York,
1991
Sangharakshita,
Buddhism & the West: The
Integration of Buddhism Into Western Society, Windhorse Publications, Glasgow, Australia,
1992
Schoenherr,
Richard & Young, Lawrence, Full Pews and Empty Altars, The University of Wisconsin Press, WI., 1993
Schweitzer,
Albert., The Psychiatric Study of
Jesus,
Beacon Press, Boston,
1948
Scott,
Nathan A., The Tragic Vision and the
Christian Faith,
Asssociations Press, New York, 1957
Sebba,
Anne, Mother Teresa: Beyond The Image, Doubleday, New York,
1997.
Seldes,
George, The Vatican Crisis, Julian Messner,
Inc., New York,
1945
Schmitt,
Karl M., The Roman Catholic Church in
Modern Latin America,
Alfred A. Knoff, New York, 1972.
Schonfield,
Hugh J., The Passover Plot, Bantam Books, New York, 1966
Schweitzer,
Albert, The Psychiatric Study of Jesus, The Beacon Press, Boston, MA., 1948.
Sipe,
A.W. Richard, Sex, Priests, and Power:
An Anatomy of a Crisis, Brunner/Mazel Publishers, New York, 1995
Smith,
Charles M., How To Become a Bishop
Without Being Religious, Doubleday,
New York, 1965.
Smith,
Wilfred Cantwell, The Faith of Other
Men,
A Mentor Book, New York, 1965.
Solignac,
Pierre, The
Christian Neurosis,
Crossroad, New York,
1982.
Spinoza,
Benedict de, A Theologico-Political
Treatise,
Dover Pub., New York,
1951.
Spong,
John Shelby, 1. Rescuing The Bible
From Fundamentalism: A Bishop Rethinks The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991; 2. Resurrection: Myth or Reality? A Bishop's Search For
The Origins of Christianity, Harper Collins Pub., New York, 1994; 3. Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992; 4. Why Christianity Must Change or Die: A Bishop Speaks To Believers in
Exile,
Harper, San Francisco,
1998.
Steinhauser,
Gerhard R., Jesus Christ - Heir To The
Astronauts,
Abelard-Schuman Ltd., New York,
1975
Thiering,
Barbara, Jesus and the Riddle of the
Dead Sea Scrolls,
Harper, San Francisco,
1988.
Thomas,
Gordon & Witts, Max Morgan, Pontiff, A Signet Book, New York, 1983.
Trần
Văn Kha, 1. Thời Đại Mới, Văn Nghệ, CA., 1992;
2. Phá Ngục Tù (Viết cùng Trần
Thiên Thanh), Văn Nghệ, CA., 1997.
Trần
Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy, Đồng Thanh, CA.,
1996
Trần
Tam Tĩnh, Dieu et César: Les
Catholiques dans L'Histoire du Vietnam, Sudestasie, Paris, France,
1978 (Bản tiếng Việt: Thập Giá và Lưỡi Gươm, nxb Trẻ)
Treece,
Henry, The Crusades, A Mentor
Book, New York,
1964.
Tuck,
Patrick J.N., French Catholic
Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam,
1857-1914: A Documentary Survey, Liverpool
University Press, G.B.,
1987.
Voas,
David, The Bad News Bible: The New
Testament,
Prometheus Bo\oks, New York,
1995.
Wallace-Hadrill,
J. M., The Barbarian West: The Early
Middle Ages,
Harper TorchBooks, New York, 1960.
Walsh,
William Thomas, Characters of the
Inquisition,
Kennedy &
Sons, New York,
1940.
Watts,
Alan W., Myth and Ritual in
Christianity,
Beacon Press, Boston,
1971
White,
Andrew D., A History of the Warfare of
Science With Theology in Christendom, Prometheus Books, New York, 1993.
Williams,
Paul L., Everything You Always Wanted
To Know About The Catholic Church But Were Afraid To Ask For Fear of
Excommunication,
Doubleday, New York, 1989.
Wolf,
James G., Gay Priests, Harper & Row, San Francisco, 1989
Woodward,
Kenneth L., Making Saints, A Touchtone Book, New York, 1990.
Yamamoto,
Kosho, Buddhism in Europe, Karinbunko, 1967
Zindler,
Frank R., Greatest Hits From Ohio, AA Press, TX, 1991.
Ziolkowski,
Theodore, Fictional Transfiguration of
Jesus,
Princeton University Press, NJ, 1972.
-
Le Cléricalisme: Voilà l'Ennemi! Les Meilleures
Pensées Anticléricales de Ferdinand Buisson, Léon Gambetta, Émile Combes,
Victor Hugo [..et al], Herblay (Seine et Oise),
Éditions de l'Idée Libre, 1937
-
Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ
II,
Nhiều Tác Giả, Giao Điểm, CA., 1995.
-
Holy Bible, The New King James
Version, American Bible Society, New
York 1982
-
The Holy Bible, New International
Version, International Bible Society, CO., 1984.
-
Ki Tô Giáo: Từ Thực Chất Đến Huyền
Thoại,
Nhiều Tác Giả, NXB Văn Hóa,
USA, 1996.
-
A. De Rhodes: Người Đầu Tiên Vận Động
Pháp Chiếm Việt Nam và Chữ Quốc Ngữ, Giao Điểm, CA., 1998
-
Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập I, 1994;
Tuyển Tập II, 1998, Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo,
Texas
-
Tây Dương Gia Tô Bí Lục, Lê Trọng Văn xuất
bản, San Diego,
CA., 1992
-
Thánh Kinh: Cựu Ước và Tân Ước (Bản Diễn Ý), Văn
Phẩm Nguồn Sống Phát Hành, 1994.
-
Tin Tức Trên Báo Chí và TV.
* * * * *
Để
giúp cho các trí thức Gia Tô và độc giả nào muốn tìm hiểu thêm về Gia Tô La Mã
Giáo, sau đây là những cuốn tài liệu đã được xếp theo từng chủ đề, để cho việc
tham khảo của quý vị được dễ dàng:
1. Lịch
sử phát triển Gia Tô La Mã Giáo :
1.
The Cross, The Flag, and the Bomb, William A. Au; 2. Holy Blood, Holy Grail, Michael Baigent,
Richard Leigh & Henry Lincoln; 3. Our
Hands Are Stained With Blood: The Tragic Story of the "Church" and
the Jewish People,
Michael L. Brown; 4. The Birth of
Christianity: Reality and Myth, Joel Carmichael; 5. The Final Superstition, Joseph L. Daleiden;
6. The Early Christian Church, J.G. Davies; 7. The Court-Martial of Jesus: A Christian Defends The
Jews Against the Charge of Deicide, Weddig Fricke; 8. Deceptions and Myths of the Bible, Lloyd M. Graham; 9. The Inquisition of the Middle Ages, Henry Charles Lea;
10. The Mythmaker: Paul and the
Invention of Christianity, Hyam Maccoby; 11. The
Truth About The Catholic Church, Joseph McCabe; 12. The Vatican & Zionism, Sergio I. Minerbi;
13. Middle Ages, George F. Mott & Harold M. Dee; 14. The Spanish Inquisition, Jean Plaidy; 15. A Legacy of Hatred: Why Christians Must Not Forget The
Holocaust,
David A. Raush; 16. Dungeon, Fire, and
Sword,
John J. Robinson; 17. Vicars of
Christ: The Dark Side of the Papacy, Peter de Rosa; 18. The Crusades, Henry Treece; 19. The Barbarian West: The Early Middle Ages, Wallace-Hadrill;
20. Characters of the Inquisition, William Thomas
Walsh.
2.
Sách Lược Truyền Đạo và Chính Trị Gia Tô La
Mã Giáo:
1.
Unholy Trinity: How The Vatican's Nazi
Networks Betrayed Western Intelligence to the Soviets, Mark Aarons &
John Loftus; 2. The Vatican Empire, Nino Lo Bello; 3. American Freedom and Catholic Power, Paul Blanshard; 4.
a. Gia Tô Thực Dân Sử Liệu, b. Sách Lược Gia Tô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu, c. Gia Tô Thực Dân Chính Sử, Chu Văn Trình; 5. Pope, Premier, President, Roland Flamini; 6. Catholicisme et Sociétés Asiatiques, Alain Forest &
Yoshiharu Tsuboi; 7. The Roman
Catholic Church in Colonial Latin America, Richard E. Greenleaf; 8. The Catholic Church in World Politics, Eric O. Hanson; 9. Les Missions Étrangères et la Pénétration Francaise au
Viet-Nam,
Nicole-Dominique Lê; 10. The
Missionaries: God Against the Indians, Norman Lewis; 11. a. Catholic Imperialism and World Freedom, b. Vietnam: Why Did We Go?, c. The Vatican's
Holocaust,
Avro Manhattan; 12. The Vietnamese
Response to French Intervention: 1862-1874, Mark W. McLeod; 13. The Politics of the Vatican, Peter Nichols; 14. Christ or Evil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, Anene Obianyido; 15. The Holy Humbugs, Padchi; 16. Missionaries, Julian Pettifer & Clive Prince; 17. The Roman Catholic Church in Modern Latin
America,
Karl M. Schmit; 18. Histoire de la
Pénétration Francaise au Vietnam
(1858-1897),
Nguyễn Xuân Thọ; 19. Đạo Thiên Chúa và
Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt-Nam, Cao Huy Thuần; 20. Dieu et César: Les Catholiques dans L'histoire du
Vietnam,
Trần Tam Tĩnh; 21. French Catholic
Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914, Patrick J.N. Tuck.
3.
Phân tích và phê bình Thánh Kinh:
1.
The X-Rated Bible: An Irreverend
Survey of Sex in the Scriptures, Ben Edward Akerley; 2. A History of God, Karen Armstrong; 3. The Bible Handbook, W.P.Ball, G.W. Foote et al..; 4. a. The Gospel of Love Versus Crime, b. The Shadow of the Deamon, Jack Bays;
5. Going By The Book: Past and Present
Tragedies of Biblical Authority, Ernie Bringa; 6. Dieu Contre Dieu, Robert Dalian; 7. Christianity Cross-Examined, William Floyd; 8. Bible Romances, G.W. Foote; 9. Who Wrote the Bible?, Richard Elliott Friedman; 10. One Hundred Contradictions in the Bible, Marshall J. Gauvin;
11. Deceptions and Myths of the Bible, Lloyd M. Graham; 12.
a. The Book of Ruth, b. The Born Again Skeptic's Guide to the Bible, Ruth Hermence
Green; 13. Mythology's Last Gods:
Yahweh and Jesus,
William Harwood; 14. Some Mistakes of
Moses,
Robert G. Ingersoll; 15. All the
Obscenities in the Bible, Gene Kasmar; 16. The
Bible Unmasked,
Joseph Lewis; 17. The Case Against
Christianity,
Michael Martin; 18. a. Resurrection:
Myth or Reality, b. Born a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, John Shelby Spong;
19. Jesus and the Riddle of the Dead Sea Scrolls, Barbara Thiering; 20. The Bad News Bible: The New Testament, David Voas; 21. Fictional Transfiguration of Jesus, Theodore
Ziolkowski; 22. The Five Gospels: What
Did Jesus Say?,
The Jesus Seminar.
4.
Cấu trúc độc tài toàn trị của chế độ giáo
hoàng:
1.
The Papacy and the Modern World, Karl Otmar Von
Aterin; 2. The Pope and the Mavericks, Louis Baldwin; 3. The Decline and Fall of the Medieval Papacy, L. Elliot Binns; 4.
American Freedom and Catholic Power, Paul Blanshard; 5. Church: Charism & Power, Leonardo Boff; 6. The Final Superstition, Joseph L. Daleiden;
7. The Rest of Us Catholics: The Loyal
Opposition,
Joseph Dunn; 8. The Limits of the
Papacy,
Patrick Granfield; 9. A Modern Priest
Looks at his Outdated Church, James Kavanaugh; 10. The Infallibility Debate, John J. Kirvan; 11.
Infallible? An Inquiry, Hans Kung; 12. The Keys to this Blood, Malachi Martin; 13. The Totalitarian
Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its
Gestapo, and Its Money-Box , Joseph McCabe; 14. Freedom's Foe - The Vatican, Adrian Pigott; 15. Authority in the Roman Catholic Church, Maximilian F.
Russer; 16. Vicars of Christ: The Dark
Side of the Papacy,
Peter de Rosa.
5.
Linh mục bỏ đạo:
1.
Pourquoi J'ai Quitté L'Église Romaine, Georges Las
Vergnas; 2. Why I Left The Roman
Catholic Church,
Charles Davis; 3. Letters To An
Ex-Priest,
Emmett McLoughlin; 4. Shattered Vows,
Priests Who Leave,
David Rice; 5. Full Pews and Empty
Altars,
Richard Schonherr & Lawrence
Young.
6.
Linh Mục cưỡng bách tình dục trẻ em và nữ tín
đồ, đồng giới tình dục :
1.
Lead Us Not To Temptation: Catholic
Priests and the Sexual Abuse of Childrenư, Jason Berry; 2. A Gospel of Shame: Children, Sexual Abuse, and the
Catholic Church,
Elinor Burkett & Frank Bruni; 3. Betrayal
of Trust: Clergy Abuse of Children, Annie Laurie Gaylor; 4. Unholy Orders: Tragedy at Mount Cashel, Michael Harris; 5. Sex, Priests, and Power: An Anatomy of a Crisis, A.W. Richard Sipe;
6. Gay Priests, James G. Wolf.
7.
Những triều đại dâm loạn của một số Giáo
Hoàng:
1.
The Bad Popes, E.R. Chamberlin; Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex
& Corruption in the Vatican, Arthur Frederick Ide; 2. Christianity & Incest, Annie Imbens &
Ineke Jonker; 3. The Love Affairs of
the Vatican or The Favorites of the Popes, Angelo S. Rappoport; 4. Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Peter de Rosa.
Phụ Lục
ABRAHAM:
THÁNH TỔ PHỤ CỦA CÁC ĐẠO CHÚA
Trang
nhà giaodiemonline vừa cho đăng bài Abraham:
Ông Tổ Của Các Đạo Chúa. Bài này của Charlie Nguyễn, alias Bùi Văn Chấn, đăng
trong tờ Đông Dương Thời Báo, số 70, tháng 8,
1998, và sau đó có trên Home Page của Charlie Nguyễn. Với bài này, Charlie Nguyễn
đã cho độc giả một bài viết giá trị về lịch sử Thánh Abraham, Tổ Phụ của các
đạo Chúa. Trong bài của Charlie Nguyễn, chúng ta cũng biết thêm về lịch sử Do
Thái, vùng Lưỡng Hà v..v.., nhưng còn chính nhân vật Abraham thì sao? Ông
Nguyễn không nói đến nhiều, mục đích nghiên cứu của ông là đưa đến kết luận:
xuất xứ của những tôn giáo như Ki Tô Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo là từ cùng
một đạo: đạo thờ bò. Để tìm hiểu thêm về Abraham và để bổ túc cho bài của ông
Charlie Nguyễn, tôi xin viết chút ít về Thánh Abraham, hoàn toàn dựa trên Thánh Kinh, bản The New
King James Version.
Tôi
vốn rất thích đọc Thánh Kinh, vì trong đó có nhiều thứ chuyện có thể đáp ứng
được sở thích của mọi người. Bạn thích chuyện dâm ô? Có trong đó. Bạn thích
chuyện tàn bạo giết người tập thể, kể cả nam phụ lão ấu? Có trong đó. Bạn thích
những chuyện hoang đường? Có trong đó. Bạn thích những chuyện mâu thuẫn? Có
trong đó. Bạn thích những chuyện thuộc về trí tuệ của thời bán khai? Có trong
đó, v..v... và v..v..
Riêng
tôi, tôi đọc Thánh Kinh để tu Thiền, định tâm, vì người nào có đầu óc, khi đọc
Thánh Kinh mà không nổi giận và quẳng nó đi vì những chuyện dâm ô, tàn bạo,
hoang đường v...v... trong đó thì có thể nói là trình độ định tâm đã đến mức
khá. Tôi còn khá hơn vì đã đọc Thánh Kinh rất kỹ với một đầu óc mà Giáo hội Ca
Tô ghét nhất, óc phân tích phán đoán theo tinh thần khoa học của một Phật tử,
một người, theo Kinh đức Phật nói cho dân Kalama, không tin vào bất cứ một điều
nào dù những điều đó phán bởi chính đức Phật, Chúa, Thánh Nhân hay Kinh điển,
nếu những điều đó mình không được chứng nghiệm vào chính bản thân. Bài viết này
kể lại vài chuyện vui và rất hấp dẫn về Thánh Abraham trong Thánh Kinh. Vì là
chuyện vui nên lời văn có đôi phần phóng túng, tôi xin tạ lỗi trước cùng quý
độc giả nào khó tính cho rằng chuyện các Thánh trong Thánh Kinh tất nhiên phải
là chuyện đứng đắn, không phải là chuyện đùa.
Trong
Thánh Kinh, thông tin đầu tiên chúng ta biết về Thánh Abraham là ở chương Sáng
Thế Kỷ, câu 11: 27,29 (Gen. 11:27,29):
"Đây là
dòng dõi Tê-Ra: Tê-Ra sinh ra Áp-ram, Na-ho, và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lot.... Rồi Áp-ram và Na-ho lấy vợ. Vợ Áp-ram tên là
Sa-ra (Sarah) (hay Sa-rai: Sarai)..."
(
This is the genealogy of Terah: Terah begot Abram (hay Abraham), Nahor, and Haran. Haran begot Lot...
Then Abraham and Nahor took wives: the name of Abraham's wife was Sarah...)
Đến
đây, chúng ta không biết Sarah là ai, cho tới 9 chương sau, Gen. 20:12, Abraham mới "bật mí"
cho chúng ta biết:
"Thật ra,
nàng chính là em gái tôi. Nàng là con cùng cha khác mẹ với tôi, và tôi đã lấy
nàng làm vợ."
(But
indeed she is truly my sister. She is the daughter of my father, but not the
daughter of my mother, and she became my wife.)
Thánh
Abraham lấy vợ, đó là một chuyện vui mừng. Mà lại lấy em làm vợ, đó là một chuyện
vui mừng thứ hai, theo tiêu chuẩn đạo đức của Thánh Kinh, vì trong đó chúng ta
được Thượng đế dạy rằng, Thánh Abraham là một con người ngay thẳng, đạo đức
(righteous), là một mẫu mực theo luật Chúa mà chúng ta phải noi gương (Gen. 26:5 : Abraham obeyed My voice and
kept My charge, My commandments, My statutes, and My laws: Abraham đã tuân theo
lời Ta, đã vâng giữ những điều răn, luật lệ của Ta) . Có lẽ vì vậy chăng mà
ngày nay chúng ta có từ "song hỷ". Thời Thánh Abraham, đó có thể là
song hỷ. Thời nay, chúng ta gọi đó là "loạn luân".
Thế
rối, Thánh Kinh kể rằng, Gen. 12: 1-3:
"Nay,
Thiên Chúa bảo Abraham: Hãy bỏ quê cha đất tổ, lìa bỏ họ hàng thân thuộc, đi
đến xứ ta chỉ định. Ta sẽ làm cho con trở thánh tổ phụ của một dân tộc lớn. Ta sẽ ban phúc cho ngươi, làm
rạng danh ngươi, và ngươi sẽ là cái phúc của mọi người. Ta sẽ ban phúc cho kẻ
nào chúc phúc ngươi, và Ta sẽ nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa ngươi"
(Now
the Lord had said to Abraham: "Get out of your country, From your kindred
and from your father's house, to a land that I will show you. I will make you a
great nation, I will bless you, and make your name great; and you shall be a
blessing. I will bless those who bless you, and I will curse those who curse
you...)
và
Abraham tuân theo lời Thiên Chúa, cùng Sarah và Lot, mang theo hết của cải, gia
súc, người làm v...v... bỏ xứ đi tới vùng Canaan.
Chỉ
có điều, nếu chúng ta đọc kỹ Thánh Kinh, thì Thiên Chúa toàn trí toàn năng khi
đó đã hơi lẫn cẫn, quên khuấy đi mất rằng, trước đó nhiều năm, Abraham đã được
ông bố Terah mang cả gia đình con cái đi tới vùng Canaan rồi (Gen. 11: 31: "Và Terah mang con, Abraham, cùng cháu Lot, con
của Haran, và nàng dâu Sarah ( con gái hay nàng dâu?? TCN), vợ của Abraham, rời xứ U-rơ của dân Can-đê đi tới vùng
Canaan "
(And Terah took his son Abraham and his grandson Lot, the son of Haran, and his
daughter-in-law Sarah, his son Abraham's wife, and they went out with them from
Ur of the Chaldeans to go to the land of Canaan.) Hơn nữa, ở đây Thiên Chúa có
vẻ lèm bèm đanh đá: "đứa nào khen
con ta, ta sẽ cưng nó; còn đứa nào chê con ta, ta sẽ nguyền rủa, chửi nó nát
nước.",
y như là một “bà lão Công Giáo nhà quê” của Linh mục Thiện Cẩm vén váy bên con
ở Bùi Chu, Phát Diệm [Theo Linh mục Thiện Cẩm thì đối với một bà lão Công Giáo
nhà quê, Chúa đã sáng tạo ra thế giới, vậy thì làm gì chẳng được, vậy chẳng có
chuyện gì phải thắc mắc].
Nhưng
vấn đề ở đây không phải là chuyện Chúa Cha ra lệnh cho Abraham rời bỏ xứ sở khi
Abraham đã rời bỏ xứ sở từ lâu rồi. Vấn đề ở đây là có độc giả nào cho rằng Do
Thái là một dân tộc lớn không? Về dân số, đất đai và quyền lực, so với nước của
anh Ba Tàu, của anh Cà Ri Cay, và nhiều nước khác trên thế giới, Do Thái có thể
nói là không đáng kể. Vậy thì lời tiên tri của Chúa Cha trở thành lời hứa hão. Có
người cãi rằng, Abraham là Thánh Tổ Phụ của các dân Chúa. Dân Chúa họp lại
chẳng thành một dân tộc lớn là gì? Thứ nhất, họ không biết thế nào là định
nghĩa của một dân tộc. Định nghĩa của dân tộc tuyệt đối không phải là một tập
hợp những người có tiếng nói khác nhau, phong tục tập quán khác nhau, và chỉ
biết gật trước mọi điều Tòa Thánh ra lệnh, hay "Tòa Thánh đánh rắm cũng
khen thơm" (Nguyễn Văn Trung). Thứ nhì, họ quên rằng Chúa Cha trong Thánh
Kinh không biết đến cả một nửa thế giới, vì không biết là quả đất tròn, và Cựu
Ước chỉ là lịch sử Do Thái. Nation là một quốc gia, một dân tộc, chứ không phải
là Vương quốc (Kingdom) của Chúa. Cãi như vậy chúng ta gọi là "cãi chầy
cãi cối", hay là "cãi lấy được."
Thế
rồi, Thánh Kinh kể rằng: Khi Abraham tới gần đất Ai Cập, Thánh bảo vợ như sau,
(Gen. 12: 11-13 ):
"Cưng à!
Qua biết cưng rất đẹp. Nếu người Ai Cập nhìn thấy cưng, và biết cưng là vợ qua,
có thể họ sẽ giết qua để cướp cưng. Vậy cưng hãy làm ơn làm phúc nói với họ
cưng là em gái của qua nhé. Nhờ cưng mà họ sẽ hậu đãi qua và để qua sống."
(Indeed
I know that you are a woman of beautiful countenance. Therefore it will happen,
when the Egyptians see you, that they will say, "This is his wife";
and they will kill me, but they will let you live. Please say you are my
sister, that it may be well with me for your sake, and that I may live because
of you.)
Thánh Abraham quả thật đúng là Thánh
Abraham. Là Thánh Tổ Phụ nên Ngài khôn hơn các con chiên chỉ biết nhắm mắt nhắm
mũi nghe lời Giáo hội, tuyệt đối tin vào Chúa Cha. Ngài đã được Chúa Cha
hứa làm cho Ngài rạng danh và là Tổ Phụ của một dân tộc lớn, nhưng Ngài chẳng
mấy tin lời hứa của Chúa Cha nên chưa tới Ai Cập Ngài đã lo phòng thân, bảo vợ
nói dối là em, sợ người ta giết Ngài để cướp vợ thì hết rạng danh và hết làm
Thánh Tổ Phụ.
Có
người cãi rằng: Sarah chẳng là em của Abraham là
gì, vậy đâu có phải là nói dối. Cãi như vậy là cãi ẩu, mù tịt về
Thánh Kinh. Đây là chuyện trong chương 12, tới đây chưa ai biết Sarah là em
Abraham. Như trên đã viết, mãi tới chương 20 Abraham mới "bật mí" cho
chúng ta biết Sarah là em cùng cha khác mẹ. Một mặt khác, vấn đề ở đây không phải là Sarah là em hay là vợ, hay cả
hai, mà là Thánh Abraham sợ chết, ham sống, ham của cải, và sẵn sàng hiến dâng
vợ, hay em, hay cả hai, cho dân Ai Cập. Thật vậy, chúng ta hãy đọc
tiếp Thánh Kinh, Gen. 12: 14-16:
"Và đúng
như vậy, khi Abraham vào Ai Cập, dân Ai Cập nhìn thấy Sarah rất đẹp. Các ông
Hoàng của Vua Pharaoh cũng thấy nàng và tiến cử nàng với Pharaoh. Và nàng được
đưa vào cung Vua. Nhờ nàng mà Pharaoh hậu đãi Abraham, cung cấp cho ông chiên,
bò, lừa, gia nhân và lạc đà."
(So
it was, when Abraham came into Egypt, that the Egyptians saw the woman, that
she was very beautiful. The princes of Pharaoh also saw her and commended her
to Pharaoh. And the woman was taken to Pharaoh's house. He treated Abraham well
for her sake. He had sheep, oxen, male donkeys, male and female servants,
female donkeys, and camels.)
Phân
tích Thánh Kinh là một nghệ thuật và là chuyện rất thú vị. Độc giả đọc đoạn trích
dẫn từ Thánh Kinh ở trên thấy sao? Tư cách của ông Thánh Tổ Phụ Abraham phải
chăng là tư cách của một người "ngay thẳng, đạo đức"? Và Pharaoh đưa
Sarah vào cung để làm gì? Các bạn đều biết để
làm gì, và tôi cũng biết. Chắc chắn không phải để mời nàng nhâm nhi
ly Coca Cola để giải khát hay để đàm luận văn thơ.. Có thể là đánh cờ người
"à la Hồ Xuân Hương" . Nếu chúng ta biết chút chút về phong tục, khí
hậu Ai Cập thì lại có vài vấn đề khó hiểu. Ai Cập là xứ nóng, rất nóng, và các
phụ nữ luôn luôn mang một tấm mạng che mặt. Vậy làm sao mà dân Ai Cập lại nhìn
thấy bộ mặt đẹp của Sarah nếu nàng không muốn cho ai nhìn thấy. Abraham biết
vậy và Sarah cũng biết vậy. Phải chăng Abraham, với sự đồng ý của Sarah, cố ý
trình diễn bộ mặt đẹp của Sarah cho mọi người thấy? Nhưng để làm gì? Thánh
Abraham đã nói rõ: "Nhờ cưng mà
họ sẽ hậu đãi qua và để cho qua sống" và Thánh Kinh đã chẳng nói rõ hơn: "để đổi lấy chiên, bò, lừa, lạc đà và cả gia nhân
nữa"
hay sao? Một nàng Sarah đổi lấy từng ấy thứ, kể ra là quá lời rồi. Frederick
Heese Eaton viết, (Scandalous Saints, p.12):
"Kế hoạch
của Abraham để giữ Pharaoh bận bịu trên giường với Sarah trong khi gia súc của
Abraham gặm cỏ trên những cánh đồng cỏ của Pharaoh đã được đền đáp rộng rãi.
Như Thánh Kinh của Moses đã chỉ rõ, làm bất cứ điều gì để có được đồng tiền.
Ngay cả làm nghề ma cô."
(Abraham's
scheme of keeping Pharaoh busy in bed with Sarah while his cattle grazed off
all of Pharaoh's pasture paid off bountifully. Anything to make a shekel, as
Moses' Bible indicates. Even pimping.)
[Vài
lời ngoài lề: Giáo hội Công Giáo đã theo đúng sách lược của Abraham: làm bất cứ điều gì để có được đồng tiền, vì
vậy tài sản của Vatican đã lên đến cả ngàn tỷ đô-la].
Nhưng
chưa hết, chúng ta hãy đọc tiếp Thánh Kinh, Gen.:
17-19:
"Nhưng vì
Sarah, vợ của Abraham, mà Chúa Cha giáng nhiều tai họa lớn cho Pharaoh và hoàng
cung của vua. Vua gọi Abraham vào trách: "Ngươi coi ngươi đã gây hại cho
ta. Tại sao ngươi không nói nàng là vợ của ngươi. Sao ngươi lại nói "Nàng
là em tôi" để ta lấy nàng làm vợ.. Đây này, vợ ngươi đây, ngươi hãy mang
nàng đi. Và vua ra lệnh đuổi Abraham cùng vợ, gia nhân, mang tài sản ra khỏi Ai
Cập."
(But
the Lord plagued Pharaoh and his house with great plagues because of Sarah,
Abraham's wife. And Pharaoh called Abraham and said: "What is it you have
done to me? Why did you not tell me she was your wife? Why did you say,
"She is my sister?" I might have taken her as my wife. Now therefore,
here is your wife, take her and go your way" So Pharaoh commanded his men
concerning him; and they sent him away, with his wife and all that he had.)
Thánh
Kinh không nói rõ họa mà Chúa Cha giáng xuống Pharaoh và hoàng cung là họa gì,
và tại sao Pharaoh lại biết những họa đó là tác phẩm của Chúa Cha? Và phải
chăng trước khi giáng họa, Chúa Cha đã cho Pharaoh biết Sarah chính là vợ
Abraham chứ không phải là em. Nhưng đọc Thánh Kinh thì đừng có thắc mắc, thắc
mắc những lời mạc khải của Chúa là có tội với Chúa. Nhưng các học giả ngày nay
không sợ tội với Chúa, mà chỉ sợ sự thật, y như
các tín đồ Ki Tô Giáo, cho nên đã để tâm nghiên cứu để giải đáp
những thắc mắc khi đọc Thánh Kinh. Và, các học giả phân tích Thánh Kinh về sau
đã đoán ra đó là họa gì, nhưng vẫn không hiểu tại sao Pharaoh lại cho rằng đó
là hình phạt của Chúa vì Pharaoh "have fun" với Sarah. Thật vậy, tại
sao Chúa Cha lại giáng họa xuống Pharaoh thay vì xuống Abraham, vì lỗi đâu có
phải là ở Pharaoh. Pharaoh thấy Sarah đẹp mà lại chưa có chồng nên mời vào cung
đánh cờ người với ông cho vui, với sự O.K "chăm phần chăm" của Sarah
và của "ông anh" Abraham chứ đâu có làm điều gì sai quấy. Đâu có thể
kết tội Pharaoh là cướp vợ của Abraham. Trước đây thì Chúa lẫn cẫn, nay lại trở
thành lẩm cẩm, phạt người có tội không phạt, lại đi phạt người vô tội. Các học
giả phân tích Thánh Kinh, không tin chuyện Chúa Cha xía vào những chuyện của
con người. Khi xưa, bất cứ điều gì mà trí tuệ thời đó chưa cho phép hiểu, thì
đều được coi như là tác phẩm của Thượng đế. Sấm được coi như là tiếng nói trong
cơn thịnh nộ của Thượng đế, sét là những lưởi gươm của Thượng đế giáng xuống để
trừng phạt con người, cả bệnh truyền nhiễm như dịch hạch do chuột gây ra cũng
được coi là tai họa do Thượng đế giáng xuống v...v.... Cho nên các học giả coi
một số chuyện trong Thánh Kinh là những chuyện dân gian đồn đại, có thể đúng
với lịch sử nên phân tích vấn đề như sau.
Nếu
thực sự Pharaoh và hoàng cung của nhà vua bị họa theo như sự đồn đại của dân
gian, thì chỉ có thể có một giải thích, đó là:
"Pharaoh
bị lây bệnh hoa liễu, có thể là bệnh lậu, do Sarah truyền sang, và rồi nhà vua
truyền sang cho vợ và các cung tần mỹ nữ trong cung."
(Eaton
Ibid., p. 11: "In plain, modern-day language stripped from superstitious
nonsense, Pharaoh caught a venereal disease, probably gonorrhea, from Sarah,
and transmitted this venereal disease to his wife and all his mistress").
Đây
là một cách giải thích, nghe ra cũng có vẻ hợp lý, vì phù hợp với một đoạn sau
trong Thánh Kinh, và vì trong một trường hợp tương tự như sẽ được trình bày
sau, họa mà Thượng đế giáng xuống là làm cho
hoàng hậu và các cung nữ không có con. Có điều chắc là nhờ sự
"hi sinh" chăm phần chăm của Sarah mà Abraham trở thành giầu có như
Thánh Kinh kể, Gen. 13: 1-2:
"Rồi
Abraham rời Ai Cập đi xuống phía Nam, mang theo vợ và tài sản. Abraham rất giầu
có về gia súc, vàng bạc."
(Then
Abraham went up from Egypt,
he and his wife and all that he had...to the South. Abraham was very rich in
livestock, in silver, and in gold.)
Giầu
có như vậy là phúc hay họa? Chúa Cha thì bảo là phúc vì đó là của Chúa ban cho.
Chúa Con [Jesus] không chịu, dùng quyền phủ
quyết giáng phúc của Chúa Cha ban cho Abraham xuống thành họa. Thật
vậy, trong Tân Ước, Luke 6: 24,
Chúa Con phán: "Nhưng khốn cho
những kẻ giầu có, vì đã nhận được sự an ủi rồi" (But woe to you who
are rich, For you have received your consolation). Câu này có nghĩa là, những
kẻ giầu có đừng có hòng bén mảng đến Thiên đường, Thiên đường chỉ để cho những
người nghèo khổ. Vì vậy đạo Chúa phần lớn là dân nghèo. Chỉ có điều, ở trên thế
gian này chẳng có ai thích nghèo cả, kể cả Giáo hội. Tài sản của Giáo hội mẹ
lên đến hàng tỷ đô la, và các giáo hội con ở các nước nghèo khổ, kể cả Việt
Nam, lại là những địa chủ bự nhất, tài sản đất đai phần lớn là do những chính
quyền thực dân đô hộ cưỡng chiếm của Chúa chiền, của dân gian, và tặng cho giáo
hội để cắm cây Thánh Giá trên đó, và ngày nay cũng có màn “mục vụ xin tiền” ở
hải ngoại..
Chúng
ta hãy đọc tiếp Thánh Kinh.
Khi
đó Sarah không có con. Nàng có một con sen (dân VN bây giờ văn minh không gọi
là con sen nữa mà gọi bằng những danh từ hoa mỹ như "ma-ri-sến" hoặc
"chuyên viên giúp việc nhà cửa". TCN) người Ai Cập, tên là Hagar. Và
Sarah nói với Abraham:
"Cưng à!
Vì Chúa không cho em có con, vậy Cưng làm ơn hãy "đi vào" con sến của
em. Nếu nó có con thì đó là con của em. (Mở cờ trong bụng) Abraham tuân theo lời vợ và "đi vào" Agar,
và Agar có mang."
(Gen.
16:1-4: Now Sarah, Abraham's wife, had borne him no children. And she had an
Egyptian maidservant whose name was Hagar. So Sarah said to Abraham, "See
now, the Lord has restrained me from bearing children. Please, go in to my
maid, perhaps I shall obtain children by her." And Abraham heeded to voice
of Sarah...So he went in to Hagar, and she conceived.)
"Đi
vào" là tôi dịch một cách máy móc từng chữ một của "go in to"
chứ thực ra người Việt Nam
ý nhị nên chỉ nói "Abraham ngủ với cô sến Hagar", còn dân Mỹ thì tả
chân hơn, gọi đó là "phắc".
Nếu
đoạn văn tả chân trên mà ở trong cuốn sách nào khác, không phải là Thánh Kinh,
thì các Cha hướng dẫn đạo đức các tín đồ lại kêu ầm lên là "văn chương
khiêu dâm, cần phải dẹp bỏ".
Chúng
ta hãy đọc tiếp chuyện Thánh Abraham.
Khi
biết mình đã mang bầu, Hagar bèn lên mặt hỗn xược với Sarah, làm cho Sarah nổi
khùng trách Abraham:
"Lỗi tại
ông mọi đàng. Tôi đã cho ông ngủ với nó, bây giờ nó có mang nó lại lên mặt với
tôi. Xin Chúa hãy xét xử giữa tôi và ông."
(Gen. 16: 4,5: And when she saw that she
had conceived, her mistress became despised in her eyes. The Sarah said to
Abraham, "My wrong be upon you! I gave my maid into your embrace, and when
she saw that she had conceived, I became despised in her eyes. The Lord judge
between you and me".)
Khi
đó Abraham không biết đến một triết lý của Đông phương: "Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả",
vả chăng có vẻ như trong người có chút máu của Thúc Sinh, cho nên vội nói:
"Nó là sến của bà, vậy bà muốn làm gì nó thì làm." Và khi Sarah đối
xử khắc nghiệt với Hagar thì Hagar phải "cao chạy xa bay". (Gen. 16:6: So Abraham said to Sarah,
"Indeed your maid is in your hand, do to her as you please". And when
Sarah dealt harshly with her, she fled from her presence.)
Thánh
Kinh kể tiếp: Chúa Cha sai Thiên sứ xuống bảo Hagar phải quay về phục vụ cho
chủ là Sarah. Hagar tuân lời Chúa và rồi sinh một đứa con trai. Abraham đặt tên
con là Ishmael. Khi đó Abraham "mới
có" 86 tuổi.
Chúng
ta hãy bỏ qua đoạn mô tả giao ước giữa Chúa Cha và Abraham khi Abraham
"mới có" 99 tuổi, theo đó thì Abraham và các hậu duệ phái nam của ông
phải cắt da qui đầu, danh từ văn hoa gọi là "lễ cắt bì", để làm gì,
không thấy Thánh Kinh giải thích, và ai không tuân theo luật này thì bị khước
từ, không được làm dân Chúa. Tôi tò mò muốn
biết, trong những nam tín đồ Ca Tô ở Việt Nam, có bao nhiêu người cắt bì theo
Thánh Tổ Phụ của mình? Không kiếm ra tài liệu nên đành chịu thôi.
Sau
đó Thánh Abraham cùng bầu đoàn nhị thê, nhất tử
đi xuống phía Nam,
vùng Gerar, địa phương của Vua Abimelech. Chiến thuật mang vợ là Sarah đổi lấy
của cải trước đây đã thành công rực rỡ đối với Vua Ai Cập Pharaoh, nay Thánh
Abraham lại mang ra dùng lại. Câu chuyện lập lại y hệt như trong trường hợp đến
Ai Cập. Ông lại bảo Sarah nói dối là em, và kết quả là Sarah lại được Vua
Abimelech vời vào cung. Để làm gì? Các bạn đều
biết để làm gì và tôi cũng biết. Vua Abimelech hơi khùng, vì khi đó
nàng Sarah trẻ đẹp mới có trên 70 tuổi.
Có thể trước khi tới vùng Gerar, Abraham đã đưa bà vợ Sarah đến "thăm xã
giao" thẩm mỹ viện Bích Ngọc. Nhưng rồi Thượng đế lại giáng họa xuống
người vô tội là Vua Abimelech. Lần này Thánh Kinh nói rõ là Chúa Cha làm cho
hoàng hậu, cung nữ và cả người hầu trong cung không có con. (Gen. 20:18: For the Lord had closed up all
the wombs of the house of Abimelech because of Sarah, Abraham's wife.) Rồi
Abimelech lại gọi Abraham vào trách vì tội nói dối, và trao trả Sarah cho
Abraham, tặng gia súc, gia nhân, và 1000 đồng tiền bằng bạc v..v.. cho Abraham
và mời Abraham đi chỗ khác chơi. Chuyện lập đi lập lại một cách nhạt phèo nên
tôi không bình luận về vụ này nữa.
Chuyện
Thánh Abraham còn dài dài, với nhiều chi tiết hoang đường và phi đạo đức, nhưng
tôi đã cảm thấy không còn hứng thú viết về những chuyện tầm bậy suốt từ trên
xuống dưới nữa, nên sau đây tôi chỉ chép vài đoạn từ trong cuốn Thánh Kinh: Cựu
Ước và Tân Ước do Hội Quốc Tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, để
quý bạn đọc thưởng lãm, tuy bản dịch này là
"tác phẩm" của những người vừa không biết tiếng Việt, vừa không biết
tiếng Anh, vì nó vừa sai, vừa không đúng tiếng Việt, so với bản King James. Những đoạn trong dấu
ngoặc đơn là tôi ghi thêm cho rõ nghĩa và để cho đúng với bản King James hơn.
(Rồi)
Áp-ra-ham cầu xin Chúa (và Chúa) chữa lành (Abimelech) cho vua, hoàng hậu, và
(các ma-ri-sến) toàn thể phụ nữ trong (cung) hoàng tộc để họ có thể sinh sản.
(Thế rồi họ có con), vì Chúa đã phạt A-bi-mê-léc, không cho hoàng hậu và các
cung nữ có con, sau khi A-bi-mê-léc bắt vợ của Áp-ra-ham (bắt bao giờ, và có
biết Sarah là vợ của Abraham không? Thánh Kinh chỉ viết rằng: vì Sarah, vợ của
Abraham) (Gen. 20:18: For the Lord had closed up all the wombs of the house of
Abimelech because of Sarah, Abraham's wife.)
Chúa
chữa lành cho Vua, vậy Abimelech mắc bệnh gì? Chúa làm cho giới phụ nữ trong
cung của Abimelech không có con và bây giờ Chúa chữa lành cho họ để họ có con,
nhưng còn Abimelech mắc bệnh gì mà Chúa phải chữa lành cho Abimelech? Giải đoán
của một số học giả cho rằng Abimelech bị Sarah truyền cho bệnh lậu không phải
là không có căn cứ. Chúa toàn năng, có sẵn trong tay antibiotic nên chữa lành
cho Abimelech và các cung nữ có khó khăn gì, có phải không, Linh mục Thiện Cẩm?
Tiếp
theo, Thánh Kinh viết đại khái như sau:
Trước
đó Chúa đã hứa cùng Sarah là sẽ làm cho nàng có con. Bây giờ, Chúa giữ lời hứa,
và Sarah mang bầu, sinh cho Abraham một đứa con đặt tên là Isaac. Khi đó Abraham vừa đúng 100 tuổi và Sarah ít ra cũng phải
ngoài 80. Một hôm, Sarah thấy con của cô sến Hagar, Ishmael, trêu
chọc con mình, Isaac, bèn bảo ông chồng Abraham: "Ông phải tống cổ mẹ con nó đi. Tôi không cho
thằng bé đó hưởng gia tài với con tôi đâu!". Lệnh Bà đã truyền,
Abraham hơi buồn nhưng không thể không theo. Chúa (có thể cũng sợ Sarah luôn)
bèn khuyên giải Abraham: "Bất cứ
Sarah nói gì với con, con hãy nghe theo, vì hậu tự của con sẽ do Isaac mà
ra."
(Whatever Sarah has said to you, listen to her voice, for in Isaac your seed
shall be called.) Do đó, sáng sớm hôm sau Abraham cấp cho hai mẹ con một ổ bánh
mì (Ba Lẹ), một bình nước và tống cổ hai mẹ con Hagar đi.
Thế
rồi một hôm (có lẽ sau khi hít vài điếu hasheesh, một loại ma túy rất thông
dụng khi đó ở vùng Ai Cập, làm bằng cây Cannabis Indica, có tác dụng làm con
người sinh ra ảo tưởng) Abraham nghe tiếng Chúa từ trên trời vọng xuống gọi:
"Abraham". Ông bèn thưa: "Dạ có con đây". Chúa phán: "Hãy bắt Isaac, đứa con một mà con yêu quí (Take now your son,
your only son Isaac, whom you love...: Chúa bị
bệnh mất trí nặng (Alzheimer) nên không còn nhớ là Abraham còn có đứa con trai
khác với cô ma-ri-sến Hagar tên là Ishmael) , đem đến vùng Moriah và dâng nó làm vật tế Thần trên
một ngọn núi mà ta sẽ chỉ định cho con." Abraham vâng lời và dẫn con đi đến
địa điểm Chúa chỉ định.
"Áp-ra-ham
lấy bó củi để dâng tế lễ thiên chất lên vai I-sac, con mình và cầm theo mồi lửa
và một con dao. Rồi hai cha con cùng đi. I-sac nói: "Cha ơi!"
Áp-ra-ham đáp: "Có cha đây, con" I-sac hỏi: "Củi lửa có sẵn rồi,
nhưng chiên con ở đâu mà dâng tế lễ thiên?" Ap-ra-ham đáp: "Con ơi,
Thượng đế sẽ cung ứng chiên con làm tế lễ thiên." (Nói láo để đánh lừa
con)
Đến
chỗ Thượng đế đã chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ, sắp củi lên, rồi trói
I-sac, con mình, và đem đặt lên lớp củi trên bàn thờ. Áp-ra-ham đưa tay cầm dao
để giết con mình. Nhưng Thiên sứ từ trên trời gọi xuống: "Đừng giết đứa
trẻ, cũng đừng làm gì nó cả. Vì bây giờ, Ta biết ngươi kính sợ Thượng đế và
không tiếc con ngươi với Ta, dù là con một của ngươi" (lại con một, Thiên
Chúa và Thiên sứ cùng bị bệnh Alzheimer nặng).
Trích
dẫn xong đoạn này, tôi muốn hỏi các tín đồ Gia Tô Việt Nam một câu: Tôi biết
bạn tuyệt đối tin và rất sợ Thượng đế, nhưng giả thử bạn có đứa con trai duy
nhất và bạn nghe tiếng Thượng đế gọi từ trên trời xuống, bảo bạn phải đem giết
đứa con mà bạn yêu quí, làm vật tế Thượng đế để chứng tỏ lòng tin và kính sợ
Thượng đế của bạn thì bạn có tuân lời Thượng đế hay không? Bạn hãy thành thực
trả lời. Bạn cho đó là lời của Satan hay là lời của Thượng đế? Đọc xong chuyện
về Thánh Abraham viết trong Thánh Kinh bạn có những nhận xét như thế nào về
Thượng đế, Abraham và Sarah? Tôi xin nhắc lại lại, theo niềm tin của các bạn
thì Thượng đế là bậc sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài, toàn trí, toàn năng, toàn
thiện, toàn nhân, và Thánh Abraham là Thánh Tổ Phụ của đạo mà bạn đang theo.
Ngoài lòng sợ Thượng đế một cách tuyệt đối và mù quáng, Abraham có những tư
cách gì để chứng tỏ ông là một vị Thánh? mà lại là Thánh Tổ Phụ của các đạo
Chúa. Phải chăng các đạo Chúa chỉ cần những tín đồ thuộc loại sợ Chúa như trên
mà không đếm xỉa gì tới đạo đức cá nhân?
Vài
lời tóm tắt sau đây để thay kết luận.
Đọc
những chuyện liên quan đến Thánh Abraham như viết trong Thánh Kinh, chúng ta
thấy đủ cả mọi mặt của ông Thánh Tổ Phụ này: loạn luân (lấy em gái làm vợ), ham
sống, ham tiền bạc, sợ chết, gian dối, bán vợ (tạo điều kiện để Pharaoh và
Abimetech đưa vợ vào cung, đổi lấy chiên, bò, lừa, lạc đà, gia nhân và tiền
bạc), sợ vợ và tàn nhẫn (đuổi vợ con đi), nói dối (với con là Isacc), mù quáng,
ác độc (định giết cả đứa con yêu quí để tế Thượng đế). Và đây chỉ là một trong
nhiều chuyện tương tự khác trong Thánh Kinh.
Ấy
thế mà có người, ông cựu Thượng Nghị Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Chức, niềm
hãnh diện của giới trí thức Ca Tô Việt Nam,
lại cho rằng: "Quyển Thánh Kinh
sẽ là cẩm nang trong sứ mạng phục hưng con người và đạo lý tại Việt Nam". Nếu ông Chức và tập
đoàn Ca Tô có cơ hội lên nắm quyền ở Việt Nam và thực thi điều trên thì con
người Việt Nam sẽ biến thành những kẻ hèn nhát, tham sống, sợ chết ; và đạo lý
ở Việt Nam sẽ là nền đạo lý loạn luân, hèn nhát, bán vợ, ham của cải, gian dối,
tàn nhẫn v..v.. với đầu óc mù mịt chỉ biết hết mực sợ một ông Thượng đế do
chính con người tạo ra để hù dọa những người yếu bóng vía và không có mấy hiểu
biết.
Trước
những chuyện “không thể đọc được” trong Cựu Ước (và trong cả Tân ước), dân
Ca-Tô mít ngày nay đưa ra luận điệu chống đỡ: “Công Giáo ngày nay không dùng
Cựu Ước, chỉ dùng Tân Ước mà thôi.” Nói láo, không có Cựu Ước thì làm gì có Tân
ước? Không có Cựu ước thì Jesus sinh ra đời để làm gì? Để “have fun” với Mary
Magdalene chứ không phải để chuộc cái tội của Adam và Eve, gọi láo là tội tổ
tông, trong Cựu ước hay sao??
Chấm Hết.